Trong bối cảnh thế kỷ XXI với xu hướng số hóa và phát triển bền vững, các doanh nghiệp trên toàn thế giới đều tập trung vào phát triển chuỗi giá trị sản phẩm và dịch vụ, trong đó cốt lõi là xây dựng và phát triển chuỗi cung ứng theo hướng bền vững với chất lượng được cải thiện, đổi mới không ngừng.
Được xem là cấu phần quan trọng của quản trị chuỗi cung ứng,
quản trị chất lượng chuỗi cung ứng bao gồm các hoạt động kiểm soát và bảo đảm
chất lượng sản phẩm của chuỗi cung ứng dựa trên các hoạt động liên kết, chia sẻ
thông tin, tăng cường giao tiếp với nhà cung ứng và khách hàng nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và điều
tra khảo sát thực địa, nhóm chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quản trị Kinh
doanh, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN đã tổng hợp lý luận nền tảng về quản trị
chất lượng và quản trị chuỗi cung ứng cùng kinh nghiệm xây dựng, triển khai mô
hình quản trị chất lượng chuỗi cung ứng tại các nước công nghiệp phát triển nhằm
đề xuất mô hình/khung phân tích áp dụng tại các doanh nghiệp Việt Nam, hướng tới
mục tiêu gia tăng lợi thế cạnh tranh và sự phát triển bền vững của các doanh
nghiệp khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chuỗi
cung ứng (supply chain) là một hệ thống các tổ chức, con người, quá trình, hoạt
động, thông tin và các nguồn lực liên quan tới việc di chuyển sản phẩm hay dịch
vụ từ nhà cung cấp hay nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Hoạt động chuỗi cung ứng
liên quan đến biến chuyển các tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu, bán thành phẩm
đầu vào thành một sản phẩm hoàn chỉnh để chuyển giao cho khách hàng cuối cùng
(người tiêu dùng). Đứng trên góc độ khách hàng, chuỗi cung ứng bao gồm tất cả
các giai đoạn liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc thỏa mãn yêu cầu của
khách hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ bao gồm nhà sản xuất, nhà cung cấp mà còn
bao gồm cả người vận chuyển, nhà kho, nhà bán lẻ và chính bản thân khách hàng.
Mục
tiêu chính của chuỗi cung ứng là tối đa hóa giá trị đem lại cho khách hàng. Chi
tiết hơn, chuỗi cung ứng như một mạng lưới các tổ chức toàn cầu hợp tác để cải
thiện các dòng chảy nguyên vật liệu, thông tin và tài chính giữa các nhà cung cấp
và khách hàng ở mức chi phí thấp nhất và tốc độ cao nhất; mục tiêu của chuỗi
cung ứng là sự hài lòng của khách hàng. Hoạt động chuỗi cung ứng ở cấp độ chiến
lược bao gồm 5 hoạt động chính gồm: (i) Hoạt động mua hàng; (ii) Hoạt động sản
xuất, chế tạo tạo ra sản phẩm và dịch vụ; (iii) Hoạt động vận chuyển các bán
thành phẩm/sản phẩm trong và ngoài phạm vi chuỗi cung ứng; (iv) Hoạt động lưu
trữ các bán thành phẩm và các nguyên liệu thô trước khi chúng được chuyển đi hoặc
đưa đi chế biến; và (v) Hoạt động bán hàng tiêu thụ sản phẩm, Bản chất của chuỗi
cung cấp là liên kết và tích hợp 4 nhà kinh doanh: nhà cung cấp, nhà sản xuất,
nhà phân phối và nhà bán lẻ nhằm bảo đảm các quá trình kinh doanh thiết yếu.
Trên
cơ sở xây dựng phương pháp và khung phân tích quản trị chất lượng chuỗi cung ứng
tại các doanh nghiệp Việt Nam, nhóm tác giả đã đưa kết quả nhằm bổ sung thêm bằng
chứng thực nghiệm về vai trò vô cùng quan trọng của quản trị quan hệ nhà cung cấp
định hướng nhà cung cấp. Kết quả này đem đến hàm ý cho các nhà quản trị rằng việc
áp dụng các thực hành định hướng chuỗi cung ứng (bao gồm: Sự hỗ trợ từ cấp quản
lý, Xây dựng uy tín với nhà cung cấp, Tin tưởng vào nhà cung cấp và Điều chỉnh
theo nhà cung cấp) là tiền đề quan trọng để đẩy mạnh sự hợp tác với nhà cung cấp
và áp dụng các thực hành quản trị chất lượng chuỗi cung ứng khác. Đặc biệt, kết
quả nghiên cứu thực nghiệm đã đưa ra hàm ý quan trọng cho các nhà quản trị rằng
trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, doanh nghiệp cần tập trung vào một nhóm các
thực hành sự hợp tác với nhà cung cấp nhất định, có tác động trực tiếp đến các
kết quả mà doanh nghiệp đang hướng đến. Đây là bài học kinh nghiệm quý báu đối
với doanh nghiệp tại các quốc gia đang phát triển để tối ưu hóa nguồn lực, bắt
kịp với tốc độ phát triển của các nước công nghiệp trên thế giới.
Một
điểm mới đáng chú ý từ nghiên cứu trên là cung cấp cho các học giả cũng như các
nhà quản trị doanh nghiệp một hệ thống thang đo nhất quán với độ tin cậy cao,
cho phép đánh giá hiệu quả của sự hợp tác với nhà cung cấp trong quản trị chất
lượng chuỗi cung ứng. Điểm khác biệt của nghiên cứu này so với các công trình
trước đây được thể hiện thông qua phân tích đồng thời một số lượng lớn các thực
hành sự hợp tác với nhà cung cấp để đưa đến góc nhìn toàn diện về tác động của
sự hợp tác với nhà cung cấp đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra,
việc đánh giá các khía cạnh khác nhau của kết quả hoạt động chỉ ra mối quan hệ
giữa từng khía cạnh kết quả đến các thực hành sự hợp tác với nhà cung cấp. Dựa
trên việc làm rõ hiệu quả của các thực hành đơn lẻ, mỗi doanh nghiệp có thể xây
dựng danh sách các thực hành quản trị sự hợp tác với cung cấp với mức độ ưu
tiên khác nhau để thực hiện mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp.
Ngoài
ra, trên cơ sở đánh giá tác động của quản trị chất lượng toàn diện (TQM) và sản
xuất Just-in-Time (JIT) đối với tính linh hoạt của chuỗi cung ứng, nghiên cứu
xác nhận mối liên hệ giữa thực hành TQM và JIT. Đây được coi là các công cụ để
đẩy mạnh tính linh hoạt. Trong khi TQM tập trung vào cải tiến liên tục và quản
lý quy trình để cung cấp sản phẩm chất lượng cao bền vững, đáp ứng hoặc vượt
qua sự mong đợi của khách hàng; JIT tìm cách loại bỏ lãng phí và giữ lượng tồn
kho nhỏ nhất. Áp dụng JIT khiến doanh nghiệp sử dụng ít không gian và thời gian
hơn, nên việc kiểm tra và phát hiện lỗi dễ dàng hơn, do đó cải thiện hiệu suất
chất lượng. Nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan tích cực giữa thực hành JIT,
thực hành TQM và hiệu suất linh hoạt. Từ đó, các doanh nghiệp sản xuất nên áp dụng
quản trị chất lượng cũng như JIT ở cả ba cấp độ: nội bộ, dòng xuôi và dòng ngược
để tăng cường khả năng linh hoạt.
Thêm
vào đó, nghiên cứu đã kiểm định tác động điều tiết của thực hành TQM đối với mối
quan hệ giữa thực hành JIT và hiệu suất linh hoạt. Xét về khía cạnh nội bộ, nếu
mức độ thực thi kiểm soát quá trình cao hơn thì việc giảm thời gian thiết lập sẽ
có tác động mạnh hơn đến hiệu suất linh hoạt. Việc giảm thời gian thiết lập dẫn
đến không gian nhỏ hơn và dòng nguyên liệu ít hơn, do đó việc quản lý quy trình
phải được điều chỉnh để phù hợp với triển khai JIT. Đối với chuỗi cung ứng dòng
xuôi, sự tham gia của khách hàng có tác động điều tiết tới mối quan hệ giữa
liên kết JIT với khách hàng và hiệu suất linh hoạt. Khi sự tham gia của khách
hàng cải thiện sự hiểu biết về thị trường, cung cấp cho khách hàng mối quan tâm
và phản hồi, các doanh nghiệp có khả năng liên kết khách hàng trong hệ thống vận
hành, cung cấp giao hàng đúng hạn.
Như vậy,
các nhà quản lý tại các doanh nghiệp sản xuất đang thực hiện các thực hành JIT
được gợi ý nên thực hiện các thực hành TQM để có thể hỗ trợ JIT dẫn đến hiệu suất
linh hoạt cao hơn. Trong trường hợp các doanh nghiệp chưa áp dụng JIT và TQM
nhưng muốn nâng cao tính linh hoạt, tại thời điểm ban đầu nên tập trung vào các
thực hành TQM.
Thông tin cuốn sách:
Tên
sách: Quản trị chất lượng chuỗi cung ứng cơ
sở lý luận và một số kinh nghiệm thực tế tại Việt Nam
Năm
xuất bản: 2021
Nhà
xuất bản: Đại học Quốc gia Hà Nội
Số
trang: 144
Khổ
sách: 16×24 cm
ISBN:
978-604-324-304-8
Thông tin tác giả:
|
PGS.TS.
Phan Chí Anh:
Sinh năm 1970 tại Hà Nội.
Hiện công tác tại Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, có 25 năm
kinh nghiệm thực hành, nghiên cứu, tư vấn, đào tạo về quản trị và cải tiến năng
suất chất lượng tại doanh nghiệp.
Quá trình đào tạo:
Tốt
nghiệp Đại học ngành Tự động hóa, Đại học Bách khoa Hà Nội, 1993; Tốt nghiệp Thạc
sĩ ngành Kỹ thuật Hệ thống Sản xuất, Viện Công nghệ Châu Á (AIT), Thái Lan,
1998; Tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Quản trị Kinh doanh, Đại học Quốc Gia Yokohama,
Nhật Bản, 2008.
Các lĩnh vực giảng dạy
và nghiên cứu:
Quản trị sản xuất tác nghiệp, Quản trị chất lượng, Quản trị chuỗi cung ứng, Cải
tiến năng suất doanh nghiệp.
Công trình khoa học đã
công bố:
Tác giả có hơn 50 công bố nghiên cứu, trong đó có 23 công trình trên các tạp
chí có uy tín quốc tế như: International
Journal of Production Economics, Supply Chain Management: An International
Journal, International Journal of Productivity
and Quality Management… |
| TS. Nguyễn Thu Hà:
Sinh năm 1982 tại Hà Nội. Hiện công
tác tại Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, có 13 năm kinh nghiệm giảng dạy, nghiên
cứu và tư
vấn về
marketing, thực hành phát triển sản phẩm mới, quản trị chất lượng chuỗi cung ứng tại
doanh nghiệp.
Quá trình
đào tạo: Tốt nghiệp Đại
học ngành Thương mại quốc tế, Học viện Thương mại quốc tế (ISCID), Cộng hòa
Pháp, 2006; Tốt nghiệp Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh quốc tế, Học viện Quản trị
doanh nghiệp (IAE), Valenciennes, Cộng hoà Pháp, 2007; Tốt nghiệp Tiến sĩ Quản
trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016.
Các lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu: Quản trị
Marketing, Marketing dịch vụ, Chất lượng dịch vụ, Phát triển sản phẩm mới, Quản
trị chất lượng chuỗi cung ứng, Cải tiến năng suất doanh nghiệp.
Công trình khoa học đã
công bố:
Tác giả đã có hơn 40
công bố nghiên cứu, trong đó có 10
công trình trên các tạp chí có uy tín quốc tế như: Supply Chain Management: An International Journal, International
Journal of Productivity and Quality Management, International Journal for Quality Research, Management & Marketing:
Challenges for the Knowledge Society… |