Trang tin tức sự kiện

Thúc đẩy du lịch cộng đồng gắn với môi trường biển: Hướng đi nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế biển ở Việt Nam

Với đường bờ biển dài hơn 3.260 km, trải rộng qua 28 tỉnh, thành phố và hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ, Việt Nam sở hữu hệ sinh thái biển phong phú cùng với nền văn hóa độc đáo của các cộng đồng dân cư ven biển. Từ lâu, phát triển du lịch biển, đảo được xác định là một trụ cột kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững quốc gia. Trong đó, du lịch cộng đồng gắn với bảo vệ môi trường biển nổi lên như một hướng đi chiến lược, vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa góp phần bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, văn hóa và sinh kế của người dân địa phương.



 

1. Tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng gắn với biển

Việt Nam là quốc gia có tài nguyên biển phong phú, đa dạng

Với đường bờ biển dài hơn 3.260 kmViệt Nam và có tới 125 bãi biển, phần lớn là những bãi tắm đẹp, trong đó bãi biển Đà Nẵng được tạp chí Forbes vinh danh là một trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh, hai vịnh biển nổi tiếng nằm trong danh sách các vịnh đẹp nhất thế giới là Vịnh Hạ Long và Vịnh Nha Trang, Việt Nam có thể được coi là quốc gia mạnh về biển, đặc biệt là du lịch biển. Bên cạnh đó, lãnh thổ vùng đất ven biển, vùng biển và hệ thống các đảo, nơi diễn ra du lịch biển đảo và vùng ven biển tập trung tới 7/13 di sản thế giới ở Việt Nam; 6/8 các khu dự trữ sinh quyển; nhiều vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên… Các hệ sinh thái biển cùng với địa hình, địa mạo và địa chất ven biển độc đáo đã hình thành nhiều kỳ quan thiên nhiên và bãi biển biển, tạo ra tiềm năng du lịch lớn, thu hút nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế đến với Việt Nam. Địa hình, địa mạo và địa chất cũng hình thành những điều kiện thuận lợi cho phát triển các cảng biển nước sâu, phục vụ cho phát triển du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng.

Hệ thống giao thông đến các khu vực có biển thuận lợi, đa dạng bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường hàng không

Theo thống kê của Bộ GTVT, hệ thống đường bộ Việt Nam có tổng chiều dài 570.448km, trong đó quốc lộ là 24.136km, đường cao tốc 816km, đường tỉnh 25.741km, đường huyện 58.347km, đường đô thị 26.953km, đường xã 144.670km, đường thôn xóm 181.188km và đường nội đồng 108.597km. Hệ thống đường thuỷ có chiều dài là 2.600km nối liền từ Bắc vào Nam đi qua hầu hết các tỉnh thành có biển, đây được coi là một động lực cho phát triển kinh tế biển nói chung và du lịch cộng đồng gắn với biển nói riêng bởi tính ưu việt riêng có của đường sắt. Đặc biệt hiện nay ngành đường sắt đã xây dựng một số tuyến đường sắt chất lượng cao như tuyến Hà Nội – Tp Hồ Chí Minh (SE4), tuyến Đà Nẵng – Quy Nhơn (The Vietgate), tuyến SE2, SE1 với khoang 4 giường nội thất cao cấp. Hiện tại mạng lưới sân bay của Việt Nam bao gồm 22 sân bay trong đó có 10 sân bay quốc tế, sân bay công suất lớn nhất là sân bay Tân Sơn Nhất với 28 triệu hành khách mỗi năm. Trong giai đoạn 2021-2030, mạng lưới cảng hàng không được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Thủ đô Hà Nội và khu vực TP.HCM, hình thành 28 cảng hàng không, bao gồm: 14 cảng hàng không quốc tế, 14 cảng hàng không quốc nội.

Các cộng đồng cư dân ven biển, đảo có bản sắc văn hoá riêng biệt, thu hút khách du lịch trải nghiệm các nét văn hoá vùng miền

Văn hóa biển là một phần quan trọng của văn hóa Việt Nam, giàu bản sắc và tồn tại sâu sắc trong tâm thức người Việt. Các lễ hội dân gian độc đáo của cư dân miền biển, như Lễ hội cầu ngư, Lễ nghinh Ông, Lễ đua thuyền, hay Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, không chỉ là nét đẹp truyền thống mà còn trở thành tài nguyên du lịch hấp dẫn. Nhiều phong tục, tín ngưỡng như thờ Cá Ông, thờ Mẫu Thoải, thờ thần biển được bảo tồn và phát triển, góp phần phong phú đời sống tinh thần và thu hút du khách trong nước lẫn quốc tế.

2. Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng gắn với biển đảo ở Việt Nam

Việt Nam có tiềm năng lớn trong phát triển du lịch cộng đồng (DLCĐ) gắn với bảo vệ môi trường biển, đặc biệt tại các vùng ven biển, đảo và đầm phá. Các mô hình DLCĐ đang phát triển mạnh mẽ ở ba khu vực chính: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, với những nét đặc thù dựa trên đặc điểm tự nhiên, văn hóa và xã hội của từng địa phương.

Khu vực Bắc Bộ ghi nhận nhiều mô hình DLCĐ thành công như dịch vụ du lịch tại làng chài Cửa Vạn, Vông Viêng ở Quảng Ninh. Người dân tại đây đã chuyển từ nghề khai thác thủy sản sang chèo thuyền phục vụ khách du lịch, góp phần giảm áp lực khai thác tài nguyên. Hải Phòng cũng phát triển mô hình tương tự tại Gia Luận và làng chài Việt Hải trên đảo Cát Bà, kết hợp sinh thái và văn hóa bản địa. Tại Nam Định, Vườn Quốc gia Xuân Thủy là điểm nổi bật với các chương trình nghiên cứu, học tập về hệ sinh thái đất ngập nước, giúp người dân cải thiện thu nhập và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.

Khu vực Trung Bộ đã khai thác tốt lợi thế về biển đảo với các địa phương như Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam. Tại Thanh Hóa, các làng chài lâu đời được tích hợp vào sản phẩm du lịch, tạo công ăn việc làm và bảo tồn văn hóa truyền thống. Nghệ An mặc dù nổi tiếng với bãi biển Cửa Lò, các hoạt động DLCĐ lại chưa phát triển đồng đều. Đặc biệt, Cù Lao Chàm (Quảng Nam) là mô hình tiêu biểu với dịch vụ homestay và chiến dịch “nói không với túi ni lông,” giúp nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường biển.

Khu vực Nam Bộ có những điểm nhấn đáng chú ý như đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), nơi mô hình DLCĐ khai thác giá trị văn hóa và cảnh quan núi lửa, hay Nhơn Hải (Bình Định) với các chương trình ngắm san hô và du lịch homestay. TP.HCM đã triển khai đề án tại Cần Giờ, tập trung vào rừng ngập mặn, trong khi Kiên Giang phát triển DLCĐ ở xã đảo Tiên Hải và đầm Đông Hồ, tạo sinh kế bền vững cho người dân.

Tuy có khá nhiều các mô hình phát triển du lịch cộng đồng của cư dân ven biển nhưng nhìn chung, các mô hình DLCĐ đều gặp phải những hạn chế:

Tính manh mún và tự phát: Nhiều mô hình chưa được tổ chức bài bản, thiếu sự kết nối và hỗ trợ từ chính quyền địa phương.

Hạ tầng chưa đồng bộ: Nhiều địa phương, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa hoặc hải đảo, thiếu điện lưới, nước sạch, hệ thống giao thông và cơ sở lưu trú đạt chuẩn.

Thiếu sự tham gia của cộng đồng: Một số nơi người dân chưa thực sự hiểu rõ vai trò và lợi ích lâu dài của DLCĐ.

Áp lực môi trường: Tình trạng du lịch phát triển quá nhanh có thể dẫn đến ô nhiễm, đặc biệt ở các điểm đến như Cù Lao Chàm hay Lý Sơn, nơi khách du lịch chưa tuân thủ nghiêm ngặt các quy định bảo vệ môi trường.

Nguồn lực hạn chế: Đầu tư vào hạ tầng, đào tạo nhân lực và quảng bá mô hình DLCĐ còn chưa tương xứng với tiềm năng.

Việc giải quyết các hạn chế này đòi hỏi một chiến lược đồng bộ giữa chính quyền, người dân và doanh nghiệp nhằm phát triển DLCĐ bền vững, gắn với bảo vệ tài nguyên và môi trường biển của Việt Nam.

3. Một số giải pháp ưu tiên thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng gắn với biển đảo

Mặc dù DLCĐ gắn với bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng vẫn tồn tại nhiều điểm nghẽn về chính sách và thực tiễn cần giải quyết. Trong ngắn hạn, các giải pháp dưới đây có thể giúp tháo gỡ những khó khăn và thúc đẩy sự phát triển bền vững của loại hình du lịch này.

Thứ nhất,  ban hành các chính sách cụ thể để hỗ trợ các doanh nghiệp, người dân tham gia các mô hình du lịch cộng đồng tại các địa phương có biển. Đồng thời phải tích hợp DLCĐ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn môi trường biển quốc gia. Việc này đảm bảo các hoạt động du lịch không phá vỡ cân bằng hệ sinh thái và không gây xung đột lợi ích giữa các ngành kinh tế khác​

Thứ hai, cải thiện hạ tầng giao thông và dịch vụ nhằm kết nối doanh nghiệp – khách du lịch - người dân địa phương trong mô hình DLCĐ. Đầu tư vào các hạ tầng cơ bản như đường xá, bến cảng, và hệ thống điện nước là ưu tiên hàng đầu​. Bên cạnh đó cần xây dựng hệ thống quản lý rác thải và nước thải.  Các điểm du lịch biển cần được trang bị các cơ sở xử lý chất thải hiệu quả để bảo vệ môi trường. Một ví dụ thành công là đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam) đã thành công trong việc thực hiện chính sách cấm túi nilon và xử lý chất thải nhựa​.

Thứ ba, Nhà nước cần có các chương trình đào tạo kỹ năng làm du lịch cho người dân địa phương: Người dân cần được tập huấn về kỹ năng đón tiếp khách, hướng dẫn viên, nấu ăn, làm homestay, và bảo vệ môi trường. Điều này sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch và gia tăng giá trị cho du khách​.

Thứ tư, kêu gọi đầu tư từ doanh nghiệp tư nhân: Các doanh nghiệp lữ hành và tổ chức phi chính phủ (NGOs) có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo và phát triển sản phẩm du lịch. Ví dụ, hợp tác giữa cộng đồng địa phương và doanh nghiệp tại Cần Giờ (TP.HCM) đã giúp phát triển các tour du lịch sinh thái gắn với bảo tồn rừng ngập mặn​. Song song với đó, Chính quyền cần tạo điều kiện để kết nối cộng đồng với các đối tác trong và ngoài nước nhằm xây dựng chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm du lịch gắn với biển.

Thứ năm, cần phải thiết kế các tour du lịch có bản sắc riêng gắn với văn hóa và môi trường: Cần phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo như tham quan hệ sinh thái rừng ngập mặn, lặn ngắm san hô, hoặc trải nghiệm nghề truyền thống như làm muối hay đánh bắt cá. Điều này không chỉ thu hút du khách mà còn tạo điều kiện để bảo vệ tài nguyên biển​, tạo sinh kế bền vững cho cư dân ven biển. Đa dạng hoá các sản phẩm du lịch bằng cách kết hợp DLCĐ với các loại hình du lịch khác như du lịch mạo hiểm, nghỉ dưỡng hay học tập để tăng giá trị trải nghiệm và kéo dài thời gian lưu trú của du khách​.

Thứ sáu, cần thiết lập hệ thống đánh giá bền vững: Cần có các tiêu chí và công cụ đánh giá mức độ bền vững của các mô hình DLCĐ, bao gồm tiêu chí môi trường, kinh tế và xã hội. Việc giám sát định kỳ sẽ giúp điều chỉnh và cải thiện hoạt động một cách hiệu quả​.

TS. Phạm Thị Linh - Khoa Kinh tế Chính trị


TS. Phạm Thị Linh

Tag:


Video
Đại học Troy (Troy University)
Tuyển sinh các chương trình liên kết
Bài đọc nhiều
Thăm dò ý kiến
Bạn cần loại thông tin nào trên web này?

Đối tác
Công ty CP XNK Bình Tây (BITEX) Công ty CP Đầu tư IMG Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB) Ngân hàng TMCP Đầu tư và PTVN (BIDV) Viện kế toán Công chứng Anh và xứ Wales
Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)
Tổng công ty Hàng không Việt Nam
Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam
Tập đoàn Tân Á Đại Thành