Nâng cao hiệu quả sử dụng nước tưới của cà phê Robusta tại tỉnh Lâm Đồng

Tình trạng biến đổi khí hậu, thời tiết khô hạn kéo dài gần đây và tình trạng thiếu nước tưới đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng sản xuất cà phê của các hộ gia đình ở khu vực Tây Nguyên. Nghiên cứu của TS. Nguyễn Đình Tiến (Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN) và cộng sự với tiêu đề “Improving Irrigation Water Use Efficiency of Robusta Coffee (Coffea canephora) Production in Lam Dong Province, Vietnam”, đăng trên tạp chí Sustainability Vol. 13, Iss. 12 (2021) đã phân tích hiệu quả sử dụng nước tưới cho cà phê tại tỉnh Lâm Đồng, từ đó cung cấp những phát hiện mới làm cơ sở để đề xuất các can thiệp kỹ thuật và thể chế có thể giải quyết các vấn đề mà nông dân đang phải đối mặt.



Thông qua mô hình hàm sản xuất Cobb-Douglas, nghiên cứu xác định năng suất cà phê đối với việc sử dụng nước tưới và các yếu tố sản xuất khác. Hiệu quả kỹ thuật (TE) và hiệu quả sử dụng nước tưới (IWUE) được phân tích bằng bao dữ liệu (DEA). Các yếu tố ảnh hưởng đến IWUE được xác định bằng cách sử dụng mô hình hàm Tobit. Kết quả cho thấy lượng nước tưới, lượng vốn lưu động, lao động và quy mô trang trại ảnh hưởng đáng kể đến năng suất cà phê. Người nông dân bản địa sử dụng nước tưới hiệu quả hơn nông dân di cư từ nơi khác đến sinh sinh sống tại địa phương. Kết quả Tobit chỉ ra rằng kinh nghiệm của nông dân, trình độ học vấn, khoảng cách từ trang trại đến nguồn nước, an ninh tiếp cận các nguồn nước, liên hệ mở rộng và tiếp cận tín dụng ảnh hưởng đáng kể đến IWUE. Nghiên cứu chỉ ra việc giảm thiểu tình trạng thiếu nước ở các trang trại cà phê cần có sự hỗ trợ của chính sách quốc gia như tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng, tập huấn về khuyến nông, quản lý đất đai và áp dụng đúng kỹ thuật vào trồng trọt kết hợp với kiến thức bản địa.

Hiện tại nước tưới dùng cho cà phê tại tỉnh Lâm Đồng phụ thuộc nhiều vào nước tự nhiên (nước mưa, ao hồ). Tuy nhiên, hiện nay đa số người dân trồng cà phê vối tại Lâm Đồng đều sử dụng phương pháp tưới tràn cho cây cà phê. Điều này khiến nguồn nước bị lãng phí, có thể dẫn đến tình trạng khan hiếm nước vào mùa khô. Có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 4 là giai đoạn quan trọng trong chu kỳ sản xuất cây cà phê và cần phải cung cấp đủ nước cho cây cà phê trong thời gian này để bảo đảm năng suất cây trồng. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng năng suất cà phê tại Lâm Đồng chưa phát huy hết tiềm năng mặc dù vốn và đầu tư cao. Điều này có thể là do thiếu nước từ việc quản lý nước kém, đặc biệt trong thời kỳ chồi hoa phát triển. Các cuộc thảo luận nhóm với nông dân trồng cà phê cũng chỉ ra 95% số người được hỏi đã sử dụng phương pháp tưới tràn cho cây cà phê của họ. Điều này cho thấy nông dân nên được thông báo và khuyến khích tuân theo lịch trình tưới tiêu và áp dụng đầu vào một cách hợp lý, hiệu quả, đúng thời vụ.

Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng nông dân trồng cà phê ở Lâm Đồng có quy mô sản xuất nhỏ và các nhóm nông dân bản địa sử dụng nước hiệu quả hơn nông dân người Kinh (những người được tiếp cận với trường học, trình độ học vấn và tín chỉ tốt hơn). Điều này cho thấy kinh nghiệm sản xuất cà phê và kiến ​​thức đóng một vai trò quan trọng trong sản xuất cà phê. Sự kết hợp giữa kiến ​​thức kỹ thuật bản địa, quản lý nước tưới tốt và thay thế các giống cà phê kém năng suất bằng các giống có năng suất tốt hơn sẽ nâng cao sự phát triển bền vững của ngành cà phê Việt Nam.

Kết quả phân tích hồi quy sử dụng DEA cho thấy hiệu quả kỹ thuật trung bình của việc sử dụng nước tưới là 72% đối với mô hình VRS DEA và 66% đối với mô hình CRS DEA. Như vậy, với mức độ hiện có của các nguồn lực và công nghệ, sản lượng cà phê có thể tăng lần lượt 28% và 34%. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật của nông dân trồng cà phê cho thấy, nước tưới có ảnh hưởng rất rõ rệt đến năng suất cà phê. Tuy nhiên, trong nghiên cứu hộ nông dân trồng cà phê ở tỉnh Lâm Đồng, kết quả cho thấy người dân sử dụng nước tưới rất kém hiệu quả vì họ có thể giảm 25% lượng nước tưới mà không làm giảm năng suất của cà phê vối. Việc nâng cao trình độ học vấn của nông dân, giúp họ tiếp xúc thường xuyên với cán bộ khuyến nông và đào tạo thường xuyên sẽ cung cấp cho nông dân đầy đủ thông tin về việc sử dụng hiệu quả các nguồn nước tưới. Tương tự, tiếp cận tín dụng sẽ nâng cao năng lực của nông dân trong việc tiếp cận và áp dụng các yếu tố đầu vào của nông trại. Các can thiệp kỹ thuật và thể chế có thể giải quyết những vấn đề mà nông dân đang phải đối mặt và cải thiện sản phẩm nông nghiệp của họ bao gồm:

Thứ nhất, tăng cường cung cấp các dịch vụ khuyến nông, tức là đào tạo về thực hành nông nghiệp tốt (GAP) như áp dụng hợp lý các đầu vào sản xuất, tỉa cành và kỹ thuật tưới, quản lý nước và đất, sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu...

Thứ hai, thúc đẩy sự hợp tác tốt hơn giữa các bên liên quan (các tổ chức, cơ quan khuyến nông của chính phủ và hiệp hội nông dân) để thực hiện các thử nghiệm canh tác cà phê và thực hành quản lý tốt nhất.

Thứ ba, tăng khả năng tiếp cận tín dụng, với lãi suất ưu đãi cho nông dân trồng cà phê, có thể giúp nông dân vượt qua hạn chế tài chính, dẫn đến tăng TE và IWUE.


>> Về bài báo: Duyen Nhat Lam Tran, Tien Dinh Nguyen, Thuy Thu Pham, Roberto F. Rañola, Jr. and An Thinh Nguyen (2021), “Improving Irrigation Water Use Efficiency of Robusta Coffee (Coffea canephora) Production in Lam Dong Province, Vietnam”, Sustainability, Vol. 13, No. 12, 6603.

>> Nhóm tác giả:

  • Trần Nhật Lam Duyên: Khoa Các khoa học liên ngành - ĐHQGHN
  • Nguyễn Đình Tiến: Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN
  • Phạm Thu Thủy: Trung tâm nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế  (CIFOR)
  • Roberto F. Rañola, Jr: Trường Cao đẳng Kinh tế và Quản lý - Đại học Philippines Los Baños
  • Nguyễn An Thịnh: Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN

Trong đó tác giả thuộc Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN:

TS. Nguyễn Đình Tiến tốt nghiệp cử nhân ngành Kinh tế Nông nghiệp tại Trường Đại học Nông nghiệp 1 (nay là Học Viện Nông nghiệp Việt Nam) năm 2001; tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế Nông nghiệp năm 2009 tại Đại học quốc gia Philippines, Los Banos; tốt nghiệp Tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế Nông nghiệp tại Đại học Quốc gia Philippines, Los Banos năm 2017. Hướng nghiên cứu chính của ông gồm: Lượng giá kinh tế môi trường, chi trả dịch vụ môi trường rừng, biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, phân tích thị trường và giá cả, tăng trưởng xanh. TS. Nguyễn Đình Tiến hiện là Chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế Tài nguyên và Bất động sản, Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Tính đến nay, TS. Nguyễn Đình Tiến là tác giả, đồng tác giả của 3 giáo trình, sách chuyên khảo; 12 bài nghiên cứu công bố trên tạp chí quốc tế thuộc danh mục ISI (SCIE); 1 bài đăng trên hệ thống tạp chí, kỷ yếu quốc tế thuộc danh mục Scopus cùng 15 bài đăng trên các tạp chí quốc tế khác. 

PGS.TS Nguyễn An Thịnh  - chuyên gia nghiên cứu và giảng dạy về Kinh tế và Quản lý tài nguyên môi trường. Hiện nay ông là Trưởng Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, đồng thời đảm nhận cương vị Phó chủ tịch Hiệp hội Sinh thái Cảnh quan Quốc tế tại Việt Nam (VN-IALE).

Các nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn An Thịnh tập trung vào sử dụng tiếp cận lai (hybrid approach) trong phân tích, đánh giá và đề xuất chính sách phát triển bền vững, ứng phó biến đổi khí hậu và giảm nhẹ thiên tai các vùng miền trong lãnh thổ Việt Nam.

Ông đã viết 19 cuốn sách xuất bản trong và ngoài nước; xuất bản hơn 100 bài báo trong nước và hơn 30 bài báo trên tạp chí quốc tế thuộc danh mục ISI/SCOPUS; chủ trì và thực hiện hơn 50 đề tài nghiên cứu khoa học các cấp.

 




Các tin khác

<12>