Trang Giới thiệu chung
 
Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia và các cơ sở giáo dục đại học thành viên

Ngày 26/3/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 26/2014/QĐ-TTg ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia và các cơ sở giáo dục đại học thành viên.


Quyết định số 26/2014/QĐ-TTg ngày 26/3/2014 có hiệu lực kể từ ngày 20/5/2014 và thay thế Quyết định số 16/2001/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải ký ngày 12/02/2001 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia.

Quy chế do Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam ký gồm 8 chương, 30 điều đã cụ thể rất nhiều quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Đại học Quốc gia cũng như các trường đại học, viện nghiên cứu khoa học thành viên. Như vậy, đến nay các văn bản về Đại học Quốc gia đã đầy đủ từ Luật Giáo dục đại học đến Nghị định của Chính phủ về Đại học Quốc gia và Quy chế Tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia.

Chúng tôi lược qua các thông tin quan trọng của Quy chế dưới đây:

Quy chế quy định về tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (được gọi chung là Đại học Quốc gia) và các cơ sở giáo dục đại học thành viên, bao gồm: tổ chức và nhân sự, hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, đảm bảo chất lượng giáo dục, tài chính, tài sản, mối quan hệ công tác, chế độ thông tin, báo cáo và thanh tra, kiểm tra.

Theo Điều 2 của Quy chế, Đại học Quốc gia là cơ sở giáo dục đại học có các đơn vị thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp, đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; có cơ cấu đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao, trong đó tập trung vào lĩnh vực khoa học, công nghệ cao và một số lĩnh vực kinh tế - xã hội mũi nhọn.

Chương II của Quy chế quy định về Tổ chức và Nhân sự, trong đó quy định cơ cấu tổ chức của Đại học Quốc gia gồm Hội đồng Đại học Quốc gia; Giám đốc và các phó giám đốc; Văn phòng và các ban chức năng; Các trường đại học thành viên; các viện nghiên cứu khoa học thành viên; Các khoa trực thuộc; Các trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ; phân hiệu (nếu có); các tổ chức phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng; cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; bệnh viện, nhà xuất bản, tạp chí khoa học...

Chương II cũng đề cập đến Hội đồng khoa học và đào tạo và một số hội đồng tư vấn khác. Trong đó quy định về Hội đồng Đại học Quốc gia gồm các thành viên đương nhiên là: Giám đốc, các phó giám đốc; bí thư đảng ủy, chủ tịch Công đoàn, bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của Đại học Quốc gia; hiệu trưởng trường đại học thành viên, viện trưởng viện nghiên cứu khoa học thành viên. Thành viên mời gồm: Đại diện của các bộ, ban, ngành trung ương, địa phương; đại diện giảng viên, nghiên cứu viên, nhà khoa học, doanh nhân có uy tín trong và ngoài Đại học Quốc gia. Hội đồng Đại học Quốc gia do Giám đốc Đại học Quốc gia quyết định thành lập sau khi được Đảng ủy Đại học Quốc gia thông qua.

Chủ tịch Hội đồng Đại học Quốc gia do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm. Tiêu chuẩn Chủ tịch Hội đồng Đại học Quốc gia như tiêu chuẩn Giám đốc Đại học Quốc gia.

Tại Điều 6 của Chương II quy định Giám đốc, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ; có nhiệm kỳ là 5 năm và không giữ quá 2 nhiệm kỳ liên tục.

Điều 7 quy định về cơ cấu tổ chức của các đơn vị thành viên. Trường đại học thành viên hoạt động theo Điều lệ trường đại học và Quy chế Tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia. Trong trường hợp có nội dung không thống nhất giữa 2 văn bản thì thực hiện theo quy định tại Quy chế Tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia. Hiệu trưởng trường đại học thành viên chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động của trường; là người đại diện pháp lý của trường đại học thành viên trong quan hệ với Đại học Quốc gia, các tổ chức và cá nhân trong nước, ngoài nước.

Viện nghiên cứu khoa học thành viên hoạt động theo các quy định hiện hành của Nhà nước đối với các tổ chức khoa học công nghệ công lập và Quy chế Tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia. Trong trường hợp có nội dung không thống nhất giữa các văn bản thì được áp dụng thực hiện theo quy định tại Quy chế này.

Cơ cấu tổ chức của trường đại học thành viên và viện nghiên cứu khoa học thành viên do Giám đốc Đại học Quốc gia quy định theo yêu cầu bảo đảm tính thống nhất, hợp lý, hiệu quả, liên thông và không mâu thuẫn với Điều lệ trường đại học.Điều 9 quy định về Hội đồng Khoa học và Đào tạo và một số hội đồng tư vấn khác thuộc Đại học Quốc gia: Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia do Giám đốc Đại học Quốc gia quyết định thành lập, giải thể; có nhiệm vụ tư vấn cho Giám đốc Đại học Quốc gia về công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ trong toàn Đại học Quốc gia.

Giám đốc Đại học Quốc gia quyết định thành lập Hội đồng bảo đảm chất lượng giáo dục của Đại học Quốc gia và một số hội đồng tư vấn khác để tư vấn cho Giám đốc Đại học Quốc gia về công tác bảo đảm chất lượng đào tạo, nghiên cứu và các hoạt động khác của Đại học Quốc gia.

Tại điều 12 quy định về Nhiệm vụ và quyền hạn về công tác nhân sự. Đại học Quốc gia quy định chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ, phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở quyết nghị của Hội đồng Đại học Quốc gia, Giám đốc Đại học Quốc gia ban hành thí điểm chế độ và chính sách thu hút, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với công chức, viên chức, nhà khoa học, nhà quản lý, giảng viên có thành tích cao; quy định mức thu nhập của công chức, viên chức, người lao động theo chất lượng và hiệu quả sản phẩm công việc.

Đại học Quốc gia được quyết định mời các nhà khoa học, nhà quản lý, chuyên gia có uy tín ở trong và ngoài nước đến giảng dạy, nghiên cứu khoa học, quản lý chuyên môn, quản lý các đề án, dự án, chương trình đào tạo và khoa học công nghệ của Đại học Quốc gia.

Đại học Quốc gia được tổ chức thi tuyển công chức, viên chức, thi nâng ngạch lên chuyên viên và tương đương đối với công chức, viên chức của các đơn vị trực thuộc theo quy định của pháp luật. Giám đốc Đại học Quốc gia quyết định bổ nhiệm các chức danh giảng viên chính, nghiên cứu viên chính, chuyên viên chính và tương đương của đơn vị trực thuộc; bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư đối với công chức, viên chức của các đơn vị trực thuộc và viện nghiên cứu khoa học thành viên; trao tặng danh hiệu tiến sĩ danh dự của Đại học Quốc gia; chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức thi nâng ngạch chuyên viên (và tương đương) lên chuyên viên chính (và tương đương), thi và xét nâng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng III lên hạng II và đề xuất việc nâng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng II lên hạng I theo quy định; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chế độ, chính sách khác theo quy định của pháp luật đối với người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu đơn vị thành viên và đơn vị trực thuộc Đại học Quốc gia.

Tại Điều 13 về ngành, chuyên ngành đào tạo thuộc Chương III quy định về Hoạt động đào tạo, Đại học Quốc gia được chủ động mở ngành, chuyên ngành đào tạo các trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ theo Danh mục các ngành, chuyên ngành đào tạo của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (gọi tắt là Danh mục đào tạo Nhà nước). Giám đốc Đại học Quốc gia quyết định mở ngành, chuyên ngành đào tạo theo quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Giám đốc Đại học Quốc gia được quyết định mở thí điểm các ngành và chuyên ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ chưa có trong Danh mục đào tạo Nhà nước theo quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành, chuyên ngành do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo theo dõi, kiểm tra. Sau thời gian thí điểm 2 khóa học (tính đến khi tốt nghiệp), Đại học Quốc gia báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo và kiến nghị bổ sung vào Danh mục đào tạo Nhà nước.

Trong Điều 14 về chương trình đào tạo và giáo trình, quy định Giám đốc Đại học Quốc gia tổ chức xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo hoặc biên soạn, lựa chọn, duyệt giáo trình của các khoa trực thuộc và giáo trình môn học chung trong toàn Đại học Quốc gia; Quyết định các khối kiến thức, các môn học chung trong chương trình đào tạo của Đại học Quốc gia. Quy trình xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo hoặc biên soạn, lựa chọn, duyệt giáo trình thực hiện theo quy định hiện hành; Đại học Quốc gia và các đơn vị thành viên được phát triển và sử dụng các chương trình đào tạo của các trường đại học tiên tiến ở nước ngoài.

Về tuyển sinh được quy định tại Điều 15, Đại học Quốc gia được tự quyết định về phương thức tuyển sinh và chịu trách nhiệm về công tác tuyển sinh trong Đại học Quốc gia. Hàng năm, căn cứ vào tiêu chí, nguyên tắc xác định chỉ tiêu tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học Quốc gia có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, tổng hợp chỉ tiêu tuyển sinh của từng đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc và thông báo tuyển sinh.

Về tổ chức đào tạo được quy định tạo Điều 16, Đại học Quốc gia tổ chức đào tạo tại các cơ sở của Đại học Quốc gia và những cơ sở khác được cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo cho phép; có trách nhiệm ban hành Quy chế hoạt động đào tạo, phù hợp với mô hình, đặc điểm của Đại học Quốc gia và pháp luật để áp dụng thực hiện trong toàn Đại học Quốc gia.

Về văn bằng, chứng chỉ, Giám đốc Đại học Quốc gia cấp bằng tốt nghiệp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, các chứng chỉ cho người học được đào tạo tại các khoa trực thuộc, phân hiệu (nếu có) và bằng tốt nghiệp thạc sĩ cho người học được đào tạo tại các viện nghiên cứu khoa học thành viên theo quy định. Hiệu trưởng trường đại học thành viên cấp bằng tốt nghiệp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, các chứng chỉ cho người học được đào tạo tại trường đại học thành viên. Viện trưởng viện nghiên cứu khoa học thành viên cấp bằng tiến sĩ cho người học được đào tạo tại viện nghiên cứu khoa học thành viên.

Đại học Quốc gia được quyền in các loại văn bằng, chứng chỉ theo mẫu riêng phù hợp với hệ thống văn bằng, chứng chỉ của Nhà nước; thực hiện việc in, quản lý, cấp phát, thu hồi, hủy bỏ văn bằng, chứng chỉ theo quy định do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Hoạt động khoa học và công nghệ được quy định tại Chương IV, Đại học Quốc gia được tổ chức thí điểm mô hình, cơ chế quản lý các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ mới, báo cáo Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan liên quan theo dõi, kiểm tra, giám sát; thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu để cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các nhiệm vụ, đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Đại học Quốc gia được tính tương đương nhiệm vụ, đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và được tổ chức thực hiện, quản lý theo quy định do Giám đốc Đại học Quốc gia ban hành, phù hợp với quy định đối với đề tài cấp Bộ.

Hoạt động hợp tác quốc tế được quy định tại Chương V, theo đó Đại học Quốc gia được trực tiếp làm việc với các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục về xuất, nhập cảnh cho công chức, viên chức, người lao động, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh của các đơn vị trực thuộc Đại học Quốc gia và khách nước ngoài do Đại học Quốc gia mời; quyết định phê duyệt và giám sát các đề án, chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài của Đại học Quốc gia và của các đơn vị thành viên theo quy định pháp luật.  

Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục được quy định tại Chương VI, Xây dựng kế hoạch kiểm định chất lượng trong toàn Đại học Quốc gia; hỗ trợ các đơn vị đăng ký đánh giá và kiểm định chất lượng tại các tổ chức kiểm định chất lượng có uy tín của Việt Nam, trong khu vực và trên thế giới.

Quy chế cũng quy định ĐHQG tổ chức đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về đảm bảo chất lượng giáo dục, đo lường và đánh giá trong giáo dục; nghiên cứu và áp dụng những thành tựu mới trong lĩnh vực đảm bảo chất lượng giáo dục, đo lường và đánh giá trong giáo dục của các nước tiên tiến; thực hiện đối sánh theo mốc chuẩn quốc gia và quốc tế làm cơ sở để xây dựng một số ngành, khoa đạt chuẩn quốc tế, từ đó nâng cao chất lượng mọi hoạt động trong Đại học Quốc gia.

Về Tài chính, tài sản được quy định tại Chương VII, Đại học Quốc gia được quyền tự chủ cao trong các hoạt động về tài chính theo Quy chế này và cơ chế tài chính đặc thù do Thủ tướng Chính phủ quy định.

Trong phạm vi nguồn kinh phí thường xuyên đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo dự toán hàng năm, Đại học Quốc gia được quy định nội dung, mức thu chi trên cơ sở cân đối các nguồn thu chi phù hợp khả năng của Đại học Quốc gia và quy định của Nhà nước. Đại học Quốc gia là chủ đầu tư đối với các dự án đầu tư sử dụng chung cho nhiều đơn vị trong Đại học Quốc gia; được quy định mức học phí phù hợp với chất lượng đào tạo đối với các chương trình đào tạo chất lượng cao.

Quy chế quy định Đại học Quốc gia là đơn vị dự toán cấp I, nhận dự toán ngân sách hàng năm do Thủ tướng Chính phủ giao và thực hiện quản lý thống nhất việc phân bổ, giao dự toán ngân sách cho các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc theo quy định hiện hành; chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc tổ chức, thực hiện công tác kế toán, quyết toán ngân sách của Đại học Quốc gia và công tác kế toán, quyết toán ngân sách của các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc theo quy định hiện hành.

Mối quan hệ công tác, chế độ thông tin, báo cáo và thanh tra, kiểm tra được quy định tại Chương VIII, Đại học Quốc gia là đầu mối làm việc trực tiếp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nơi Đại học Quốc gia đặt trụ sở để giải quyết các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia và của các đơn vị thành viên.

Đại học Quốc gia thực hiện công tác thống kê, báo cáo với Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục và đào tạo, với các bộ, ngành khác và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về các lĩnh vực do các bộ, ngành khác và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý theo quy định của Chính phủ và pháp luật./.

 

Lê Bùi - VNUnet