Trang Nghiên cứu
 
Một số gợi mở chính sách cho Việt Nam trong quá trình hội nhập các FTA

Vừa qua, ngày 27/4/2021, Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN đã tổ chức toạ đàm “Các phương pháp đánh giá tác động của Hiệp định thương mại do”. Đây là sự kiện nhằm mục tiêu tạo diễn đàn cho các giảng viên trao đổi kinh nghiệm chuyên môn và phát triển ý tưởng nghiên cứu để từ đó tăng xuất bản trong nước và quốc tế.


Tọa đàm gồm 2 bài tham luận “Tổng quan về các phương pháp đánh giá tác động Hiệp định thương mại tự do” của TS. Vũ Thanh Hương; và “Đánh giá tác động của RCEP: áp dụng mô hình cân bằng khả toán” của TS. Nguyễn Tiến Dũng. Thông qua chia sẻ của hai diễn giả, các phương pháp cũng như mô hình để đánh giá tác động hiệp định thương mại tự do được tiết lộ, mang đến cơ hội nghiên cứu sâu hơn cho các nhà nghiên cứu kinh tế và hoạch định chiến lược. Tọa đàm cũng đã trao đổi, chia sẻ các vấn đề xoay quanh cơ hội, thách thức từ các FTA cũng như những việc Chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam cần hành động để có thể thu được lợi ích từ các FTA.

Quá trình hội nhập các FTA của Việt Nam

Cùng với việc gia nhập ASEAN từ năm 1995, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO năm 2007, tính đến tháng 5/2021, Việt Nam có 14 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã có hiệu lực (AFTA, ACFTA, AKFTA, AJCEP, VJEPA, AIFTA, AANZFTA, VCFTA, VKFTA, VN - EAEU FTA, CPTPP (Tiền thân là TPP), AHKFTA, EVFTA, UKVFTA); 1 FTA chưa phê chuẩn, sắp có hiệu lực (RCEP) và 2 FTA đang đàm phán (Vietnam - EFTA FTA và Việt Nam - Israel FTA).

Các kết quả và thách thức từ hội nhập

Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công trong phát triển kinh tế - xã hội từ việc tích cực hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, đặc biệt là gần đây với ba hiệp định thương mại tự do thế hệ mới CPTPP, EVFTA và UKVFTA được ký kết và có hiệu lực. Việc ký kết và tham gia các FTA đã mở ra thị trường xuất nhập khẩu rộng lớn hơn cho Việt Nam. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam ra thị trường thế giới tăng liên tục, kể cả trong thời điểm nền kinh tế thế giới gặp nhiều biến động. Năm 2019, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục, vượt mốc 500 tỷ USD. Năm 2020, trong đại dịch Covid-19, thương mại của Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng dương và thặng dư thương mại đạt mức kỷ lục, gần 20 tỷ USD. Việt Nam là một trong số ít các nước trong khu vực châu Á vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng thương mại dương trong đại dịch. Trong Quý 1/2021, thương mại của Việt Nam tăng hơn 24% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng 22%, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tăng 26,3% và cán cân thương mại xuất siêu ước đạt hơn 2 tỷ USD. Riêng với EVFTA có hiệu lực vào tháng 8/2020, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang EU đã dần được cải thiện trong những tháng cuối năm 2020 và tăng 18% trong 3 tháng đầu năm 2021. Đó là những tín hiệu hết sức tích cực mà Việt Nam đạt được ngay trong Quý đầu năm, cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ của hoạt động sản xuất và thương mại hàng hóa của Việt Nam, dù dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp ở nhiều quốc gia trên thế giới. Có được kết quả này có đóng góp không nhỏ từ các FTA đã được thực thi trong thời gian vừa qua.

Việt Nam không những củng cố được các thị trường truyền thống mà còn khơi thông nhiều thị trường tiềm năng trên cơ sở thúc đẩy quan hệ với các đối tác chiến lược kinh tế quan trọng, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước. Việc tham gia và thực hiện các FTA thế hệ mới đây là điều kiện để Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư công nghệ cao và cải thiện môi trường kinh doanh, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2021 và trong giai đoạn tới.

Cụ thể, một số hiệp định được ký kết gần đây như CPTPP, EVFTA, RCEP… sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam vì đều là những đối tác lớn của Việt Nam trong hoạt động thương mại và đầu tư. có phạm vi thị trường khoảng 500 triệu người dân và chiếm hơn 13% GDP toàn cầu. Việc tham gia CPTPP sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 1,7 tỷ USD, xuất khẩu tăng hơn 4 tỷ USD, tăng tương ứng 1,32% và 4,04% đến năm 2035. Còn với EVFTA, trung bình mỗi năm Việt Nam sẽ tạo thêm khoảng 146.000 việc làm; GDP tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18 đến 3,25% cho giai đoạn 5 năm đầu thực hiện, 4,57 đến 5,30% cho giai đoạn 5 năm tiếp theo và 7,07 đến 7,72% cho giai đoạn 5 năm sau đó; có thêm 0,8 triệu người thoát nghèo vào năm 2030… RCEP vừa được ký bao gồm 10 nước thành viên ASEAN và năm quốc gia đã có FTA với ASEAN là Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand. Hiệp định có hiệu lực sẽ tạo ra thị trường quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới. Với RCEP, việc thực thi RCEP có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 0,4% đến năm 2030 nếu xét lợi ích trực tiếp, có thể lên đến 1% lợi ích gián tiếp từ cải cách thể chế. RCEP có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho nhiều ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam nhờ quy tắc xuất xứ "dễ thở" hơn so với các hiệp định thương mại tự do khác, điển hình nhất là các mặt hàng dệt may, nông thủy sản. Cụ thể, với hàng dệt may, trong khi các FTA trước đó giữa Việt Nam - Nhật Bản, ASEAN - Nhật Bản đều yêu cầu quy tắc xuất xứ hai công đoạn. Điều đó nghĩa là vải phải được sản xuất trong khu vực ASEAN hoặc Nhật Bản mới được ưu đãi thuế quan. Với RCEP, Việt Nam có thể nhập vải bất cứ đâu, chỉ cần cắt may tại Việt Nam (chuyển đổi chương sản phẩm) là có thể được hưởng ưu đãi thuế khi xuất vào Nhật Bản. Tương tự, với hàng thủy sản, các hiệp định trước đây đều yêu cầu xuất xứ thuần túy tại Việt Nam, nhưng RCEP cho phép nhập khẩu con giống, nuôi trồng tại Việt Nam và xuất khẩu mà vẫn được hưởng ưu đãi. Với RCEP, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tham gia vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực, đồng thời được hưởng lợi từ việc cắt giảm chi phí giao dịch và môi trường kinh doanh thân thiện hơn nhờ hài hòa hóa các quy định hiện hành và áp dụng chung trong các FTA khác nhau của ASEAN.

Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả từ hội nhập, Việt Nam cũng phải đối đầu với những thách thức đến từ việc ô nhiễm môi trường, hiệu ứng bát mỳ, chênh lệch giàu nghèo và chảy máu chất xám. Đặc biệt như hiệp định RCEP cũng kéo theo một số thách thức về thương mại như khả năng tăng nhập siêu. Việt Nam đang nhập siêu từ nhiều quốc gia thành viên RCEP. Trước đây, Việt Nam chủ yếu nhập siêu với ASEAN, Trung Quốc thì thời gian gần đây nhập siêu với cả Australia, New Zealand, Nhật Bản…Điều này dẫn đến nguy cơ rủi ro đối mặt với các vụ kiện phòng vệ khi không kiểm soát đúng mức nguyên liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất, xuất khẩu sang các thị trường ngoài khu vực.

Các tư vấn chính sách cho Việt Nam trong quá trình hội nhập các FTA

Năm 2020 đánh dấu bước chuyển quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, khi một loạt các FTA thế hệ mới đi vào thực thi và ký kết. Đây sẽ là bệ phóng giúp doanh nghiệp trong nước vươn ra “biển lớn” và là động lực để kinh tế Việt Nam phục hồi sau đại dịch.

Đối với Chính phủ:

Trong bối cảnh những thuận lợi và khó khăn đan xen, cần xác định rằng chiến lược cốt lõi của Việt Nam để đối phó với những biến động của tình hình kinh tế thế giới và đại dịch Covid-19 là thúc đẩy ổn định vĩ mô, thực hiện chiến lược kép, kiên trì với con đường hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường thực hiện các FTA đã ký kết để tăng xuất khẩu và duy trì đà tăng trưởng. Cần tận dụng những lợi ích từ FTA để tham gia ngày càng sâu hơn và cao hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời tận dụng được cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử, thương mại số, theo kịp những xu hướng mới của thương mại quốc tế nói chung và nền kinh tế số nói riêng. Thêm vào đó, để thực thi hiệu quả các FTA, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện rà soát cơ chế chính sách cho phù hợp với các cam kết quốc tế, thực hiện phổ biến thông tin rộng rãi để các ưu đãi được tận dụng triệt để, cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất và giá trị toàn cầu.

Việt Nam cần chủ động đánh giá, phân tích, dự báo tình hình thế giới và khu vực để có chủ trương, đối sách phù hợp trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Cần theo sát từng động thái và dự đoán các kịch bản của nền kinh tế thế giới trong điều kiện biến động hiện nay, hoạch định ra các giải pháp cho từng kịch bản đó để ở thế sẵn sàng chuẩn bị cho mọi khả năng, kể cả là khả năng xấu nhất. Việt Nam cũng cần tiếp tục thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để đón đầu thu hút các doanh nghiệp nước ngoài trước làn sóng định vị và xây dựng lại chuỗi giá trị toàn cầu. Việc Chính phủ nỗ lực giảm chi phí cho các nhà xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp sản xuất bằng cách cắt giảm tối đa các thủ tục và giấy phép, đồng thời tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường mới cũng là giải pháp cần thiết. Với WTO, Việt Nam cần nhìn nhận, đánh giá rõ hơn vai trò của WTO đối với sự phát triển thương mại của Việt Nam để từ đó xác định cách tiếp cận với các vấn đề thương mại đa phương hợp lý trong thời gian tới.

Về phía Bộ Công thương, cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp điều hành hội nhập của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại, cần tiếp tục chỉ đạo thương vụ và các đơn vị liên quan tăng cường thực hiện các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, mở rộng thị trường, tập trung khai thác lợi thế xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan chức năng phụ trách việc xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, khẩn trương hỗ trợ các doanh nghiệp lập và triển khai kế hoạch quảng bá, giới thiệu sản phẩm để tham gia vào các chương trình hội chợ, giao thương và kết nối hợp tác với các doanh nghiệp của các chính sách đối tác FTA, nâng cao hiệu quả và đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, tập trung vào các hàng hóa có lợi thế xuất khẩu, các thị trường tiềm năng và các thị trường ngách nhằm đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.

Bộ Công thương cũng cần đẩy nhanh việc xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực đối với hàng hóa xuất khẩu. Đồng thời có kế hoạch cụ thể cho việc xây dựng, hướng dẫn áp dụng các tiêu chuẩn đối với hàng hóa xuất khẩu vào thị trường các nước đối tác, bởi những tiêu chuẩn đối với hàng hóa nhập khẩu mà chính phủ các nước đối tác, đặc biệt là chính phủ các nước phát triển, quy định có khả năng tạo ra các rào cản thương mại đối với sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó, Bộ Công thương và hiệp hội các ngành hàng cần có kế hoạch phổ biến, tư vấn, đào tạo cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu về áp dụng tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa của các nước đối tác để tránh rủi ro khi hàng hóa xuất khẩu không đảm bảo tiêu chuẩn quy định không được nhập khẩu vào thị trường các nước đối tác.

Đối với doanh nghiệp:

Hiện nay việc tận dụng tốt các FTA vẫn tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp biết tập trung xây dựng thương hiệu quốc tế cho mình từ trước. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa tận dụng tốt các FTA. Do vậy đòi hỏi phải có sự liên kết mạnh mẽ giữa cộng đồng doanh nghiệp, cùng nhau chia sẻ thông tin và thế mạnh để tận dụng tốt các lợi thế từ các FTA đã ký kết. Đại dịch Covid-19 cũng cho thấy nhiều vấn đề nổi lên như chi phí logistics tăng lên… đặt những vấn đề cho hoạt động xuất nhập khẩu thời gian tới. Khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp phải chấp nhận và chuẩn bị cho các thay đổi của nền kinh tế thế giới cũng như có giải pháp cho những yếu tố bất thường và chủ động ứng phó,... Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thì cần dựa vào điều kiện sản xuất, thông tin chiến lược thị trường để so sánh và lựa chọn sử dụng và tận dụng các lợi thế ưu đãi của hiệp định phù hợp nhất. Đi cùng với đó là yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng yêu cầu của các thị trường khó tính, cập nhật các quy định và yêu cầu của các biện pháp phi thuế quan được ban hành ở các thị trường để khai thác hiệu quả lợi ích của FTA mang lại.

Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cần chủ động tìm hiểu và xây dựng kế hoạch trong việc điều chỉnh chuỗi cung ứng, các nguyên vật liệu đầu vào để đảm bảo đáp ứng các quy tắc xuất xứ, qua đó mới có thể thực sự tận dụng được thuế suất ưu đãi khi UKVFTA và RCEP có hiệu lực. Đồng thời, trong thời gian tới, cần chuyển hướng nhập khẩu nguồn nguyên liệu trong một số ngành như dệt may, da giày để tận dụng được những cơ hội từ các cam kết của Hiệp định.

Các doanh nghiệp Việt Nam cần cải thiện tính đồng nhất trong từng lô hàng, tăng năng lực bảo quản sau thu hoạch và nâng cao chất lượng sản phẩm mới có thể chinh phục được thị trường các nước đối tác phát triển. Hầu hết thị trường của các nước trong EVFTA, UKVFTA và RCEP có nền kinh tế mở, ủng hộ thương mại tự do toàn cầu, nhưng hàng xuất khẩu lại phải thông qua sự kiểm soát khá gắt gao về các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn thực phẩm.... Bên cạnh đó là các yêu cầu bắt buộc về vệ sinh an toàn thực phẩm, dán nhãn, môi trường...của các nước đối tác phát triển rất khắt khe và không dễ đáp ứng. Vì vậy, dù có được hưởng lợi về thuế quan thì hàng hóa của Việt Nam cũng phải hoàn thiện rất nhiều về chất lượng để có thể vượt qua được các rào cản này. Đồng thời, các FTA thế hệ mới không chỉ tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ, mà còn tích hợp nhiều yếu tố quan trọng khác, chẳng hạn như hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Tóm lại, các doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập thị trường các nước đối tác phải đảm bảo ít nhất ba vấn đề sau: tiêu chuẩn hóa, sức khỏe và môi trường.

Các doanh nghiệp cần kiểm soát kỹ vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các hàng hóa xuất khẩu thuộc ngành hàng nông sản - thực phẩm để tránh rủi ro, bởi tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm của các nước đang phát triển, đặc biệt là ngưỡng tối đa thuốc bảo vệ thực vật quy định rất chặt chẽ. Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam ký được FTA với EU và Anh, giúp rau quả Việt Nam duy trì được lợi thế về thuế quan so với các đối thủ cạnh tranh khác. Tuy nhiên, lợi thế về thuế quan của rau quả Việt Nam sẽ không duy trì được lâu khi các đối thủ của Việt Nam cũng đang đàm phán với EU và Anh để có những hiệp định tương tự. Do đó, những doanh nghiệp hiện đã có thế mạnh về vùng nguyên liệu, cũng như có đầy đủ hệ thống quản lý chất lượng, cần nhanh chóng tranh thủ cơ hội, chiếm lĩnh thị trường ngay trong giai đoạn đầu EVFTA và UKVFTA có hiệu lực.

Đối với doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, cần tự giác thực hiện nghiêm túc và tuân thủ chặt chẽ các quy định về truy xuất nguồn gốc; Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng thuốc kháng sinh trong khâu sản xuất, chế biến của mình để phục vụ xuất khẩu. Đồng thời kiểm soát tốt vấn đề về kiểm dịch thủy sản, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong toàn bộ chuỗi bảo quản, chế biến để có sản phẩm hàng hóa thủy sản xuất khẩu chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của các nước nhập khẩu. Bên cạnh đó, cần chủ động hợp tác, liên kết để nâng cao sức mạnh, tạo chuỗi cung ứng thông qua thúc đẩy liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân, ngư dân, hộ sản xuất, từ đó hoàn thiện “chuỗi giá trị” cũng như nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chú ý đến vấn đề phát triển bền vững của các FTA thế hệ mới.

 
>> THÔNG TIN LIÊN QUAN: 
 

 

VỀ CHỦ TỌA CỦA TỌA ĐÀM:
TS. Nguyễn Tiến Dũng nhận bằng Tiến sĩ và Thạc sĩ Kinh tế phát triển tại Đại học Nagoya, Nhật Bản. Hiện nay, TS. Nguyễn Tiến Dũng là giảng viên Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN.
 
TS. Vũ Thanh Hương, tốt nghiệp Thạc sĩ Kinh tế tài nguyên thiên nhiên tại trường Đại học Queensland, Australia và nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế quốc tế tại trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Hiện nay, TS. Vũ Thanh Hương là Phó Chủ nhiệm Khoa Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN.
Lĩnh vực nghiên cứu chính gồm Thương mại quốc tế, Đánh giá tác động của hội nhập thương mại, Thuận lợi hoá thương mại và Hội nhập kinh tế quốc tế.



Nguyễn Tiến Dũng - Vũ Thanh Hương