Hành vi và thái độ của nông dân đối với việc thích ứng với biến đổi khí hậu: Bằng chứng từ nông dân sản xuất nhỏ ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống con người đã được thừa nhận rộng rãi, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Nông nghiệp vừa dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu vừa là nguồn phát thải khí nhà kính đáng kể. Sự nóng lên toàn cầu, nguyên nhân chủ yếu là do lượng khí thải nhà kính tăng lên của con người, có tác động đáng kể đến năng suất cây trồng.



Biến đổi khí hậu, cùng với các thách thức môi trường quan trọng khác như ô nhiễm nguồn nước và suy thoái đất, gây ra những mối nguy hiểm nghiêm trọng cho nền nông nghiệp toàn cầu, đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Ví dụ, nhiệt độ cao và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt có thể làm tăng nguy cơ thiếu lương thực và hạn hán, đe dọa sản lượng nông nghiệp. Đặc biệt, an ninh lương thực có thể bị ảnh hưởng chủ yếu bởi biến đổi khí hậu vì sản xuất cây trồng phụ thuộc tương đối vào các kiểu thời tiết ổn định như nhiệt độ và lượng mưa từ năm này sang năm khác, đặc biệt trong các giai đoạn phát triển quan trọng của cây trồng. Do đó, cả “giảm thiểu biến đổi khí hậu” (tức là giảm thiểu khí nhà kính) và “thích ứng với biến đổi khí hậu” (tức là đầu tư vào khả năng phục hồi khí hậu) đều cần thiết và cần được các nhà hoạch định chính sách cũng như các học giả nghiên cứu tính đến.

Nghiên cứu này xem xét làm thế nào một loạt các yếu tố tâm lý xã hội, bao gồm rủi ro nhận thức, niềm tin vào sự xuất hiện và hậu quả của biến đổi khí hậu, niềm tin vào sự khéo léo của con người và niềm tin vào các thể chế, có thể ảnh hưởng đến quyết định của nông dân trong việc thực hiện các chiến lược giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu khác nhau.

Mục tiêu của mô hình thực nghiệm là đánh giá vai trò của một số biến tâm lý xã hội, bao gồm niềm tin, nhận thức rủi ro và niềm tin vào thể chế đối với hành vi và thái độ của nông dân trước việc thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Vì tất cả các biến phản hồi của nhóm tác giả bao gồm các danh mục được sắp xếp theo thứ tự (nghĩa là từ “không áp dụng” đến “triển khai dài hạn”) với thang điểm năm, nhóm tác giả áp dụng mô hình hồi quy logistic theo thứ tự tỷ lệ cược (tức là mô hình logit theo thứ tự) (OLG) để phân tích phản ứng của nông dân.

Trong nghiên cứu, nhóm tác giả đóng góp cho tài liệu hiện có bằng cách mở rộng khuôn khổ được phát triển bởi các nghiên cứu của Arbuckle và cộng sự (2013), trong đó điều tra vai trò của các yếu tố tâm lý xã hội (ví dụ: mối quan tâm về môi trường, niềm tin và sự khéo léo của con người) trong việc hỗ trợ nông dân thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Đặc biệt, nhóm tác giả nghiên cứu tác động từ niềm tin của các cá nhân khác nhau đối với hành vi của nông dân, bao gồm niềm tin vào hậu quả của biến đổi khí hậu, niềm tin vào sự xuất hiện của biến đổi khí hậu và niềm tin vào sự khéo léo của con người. Nhóm tác giả cũng xem xét vai trò của rủi ro nhận thức và niềm tin vào các thể chế, có liên quan đến mức độ nhận thức và niềm tin vào những hậu quả bất lợi vì chúng là các yếu tố quan trọng có thể củng cố niềm tin và hành động của cá nhân đối với môi trường. Hơn nữa, nghiên cứu còn nhằm mục đích nâng cao hiểu biết về các hành vi thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu của nông dân (chủ yếu là các hộ sản xuất nhỏ) ở miền Bắc Việt Nam. Lưu ý rằng nông dân sản xuất nhỏ ở các nước đang phát triển như Việt Nam có nhiều khả năng phải chịu tác động của khí hậu hơn so với các nông dân ở các nước phát triển.

Nghiên cứu có kết quả như sau: 

- Niềm tin của nông dân và rủi ro nhận thức: Kết quả nghiên cứu cho thấy niềm tin của nông dân vào sự xuất hiện và hậu quả của biến đổi khí hậu cũng như nhận thức rủi ro của họ có thể tác động tích cực đến hành vi thích ứng và giảm nhẹ của họ, trong khi niềm tin vào thể chế không ảnh hưởng đáng kể đến hành vi của nông dân đối với biến đổi khí hậu thích ứng và giảm thiểu. Trong khi đó, sự khéo léo của con người có tác động tiêu cực và đáng kể đến quyết định của nông dân trong việc thực hiện các hành động thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Kết quả nghiên cứu ủng hộ lý thuyết VBN rằng niềm tin, nhận thức và nhận thức rủi ro của cá nhân là những yếu tố quan trọng có thể củng cố các hành vi ủng hộ môi trường của cá nhân.

- Đặc điểm kinh tế - xã hội của nông dân, khoảng cách đến địa điểm canh tác và biến đổi khí hậu: Nhóm tác giả nhận thấy rằng độ tuổi của chủ hộ có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các hành vi thích ứng và giảm nhẹ của nông dân. Tương tự như kết quả của Arbuckle và cộng sự (2013), nông dân lớn tuổi có nhiều khả năng thực hiện các hành động thích ứng và giảm nhẹ hơn so với những người trẻ tuổi. Tuy nhiên, nhóm tác giả quan sát thấy hành động hỗ trợ của nông dân bị đảo ngược ở bước ngoặt của những người được hỏi có độ tuổi trên 61 tuổi. Kết quả này cho thấy rằng độ tuổi của những người hưởng lợi mục tiêu có thể cần phải được xem xét cẩn thận khi phân phối trợ cấp của chính phủ nhằm giải quyết các tác động của biến đổi khí hậu. Cùng với tín dụng vi mô, thu nhập từ nông nghiệp rất quan trọng để cho phép nông dân tái đầu tư vào trang trại của họ. Đặc biệt, nhóm tác giả nhận thấy rằng thu nhập từ nông nghiệp có thể thúc đẩy tích cực xu hướng của nông dân áp dụng các chiến lược thích ứng và giảm nhẹ để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Abid và cộng sự (2016) rằng các hộ nông dân ở Pakistan đã thay đổi hành vi của họ để áp dụng nhiều biện pháp thích ứng hơn nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu khi thu nhập từ nông nghiệp của họ tăng lên. Tuy nhiên, nhóm tác giả quan sát thấy rằng đầu tư của nông dân vào công nghệ và phương pháp canh tác mới phụ thuộc vào quy mô trang trại hơn là thu nhập từ nông nghiệp và khả năng tiếp cận tín dụng vi mô. Tương tự như nghiên cứu của Ojo và Baiyegunhi (2020), kết quả này cho thấy nông dân có diện tích canh tác lớn hơn dường như phải đối mặt với rủi ro cao hơn về các hiện tượng thời tiết cực đoan và do đó, họ có xu hướng đầu tư vào công nghệ canh tác mới hơn những người khác. Khoảng cách đến các địa điểm canh tác ảnh hưởng đáng kể đến khả năng đa dạng hóa cây trồng và vật nuôi của nông dân, áp dụng công nghệ mới và bảo tồn độ phì nhiêu của đất. Kết quả này cho thấy hầu hết nông dân sống gần trang trại đều có nhận thức về tác động của khí hậu và do đó, họ chủ động tìm kiếm các giải pháp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu so với những người sống xa trang trại.

Nghiên cứu đề xuất những hàm ý chính sách sau:

- Khuyến khích mở rộng và nâng cao nhận thức của nông dân về các hiện tượng và hậu quả của biến đổi khí hậu để nâng cao sự ủng hộ của họ đối với các chiến lược giảm nhẹ.

- Nâng cao nhận thức về hậu quả của biến đổi khí hậu thông qua sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng và tiếp xúc cá nhân thông qua các cơ quan khuyến nông.

- Chương trình giáo dục nghề nghiệp cần kết hợp với cung cấp tín dụng vi mô như một công cụ giúp nông dân sản xuất nhỏ thích ứng với biến đổi khí hậu.

- Thông tin về tác động của khí hậu có thể được chuyển đến nông dân thông qua các kênh khác nhau như bạn bè, hàng xóm, phương tiện truyền thông đại chúng, hiệp hội nông dân và chính quyền địa phương để nâng cao nhận thức của nông dân về rủi ro và nêu lên mối lo ngại của họ về biến đổi khí hậu.

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Tiet, T., To-The, N. & Nguyen-Anh, T. (2022). Farmers’ Behaviors and Attitudes toward Climate Change Adaptation: Evidence from Vietnamese Smallholder FarmersEnviron Dev Sustain 24, 14235-14260.

>>> GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

PGS.TS. Tô Thế Nguyên hiện là Phó Trưởng Khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại học Kinh tế -ĐHQQHN. Ông tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Strasbourg (Pháp) năm 2016, được bổ nhiệm chức danh Phó Giáo sư ngành Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế học năm 2022. Hướng nghiên cứu chính của ông gồm: Kinh tế môi trường, kinh tế học hành vi, quản lý kinh tế, kinh tế đầu tư. Đến nay, đã xuất bản được hơn 30 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín (ISI/Scopus) và trên 30 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên ngành ở Việt Nam.

ThS. Nguyễn Anh Tuấn hiện là giảng viên Khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Anh nhận bằng Thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế Nông nghiệp tại Đại học Tây Úc (2019). Với hướng nghiên cứu chính liên quan đến kinh tế học về chi phí giao dịch, kinh tế thể chế, phân tích chính sách, kinh tế học, kinh tế học hành vi, kinh tế nông nghiệp, kinh tế môi trường, phát triển bền vững, anh đã có nhiều công trình được công bố trên các tạp chí uy tín quốc tế.


Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN


Các tin khác