Để thúc đẩy nền kinh tế năng lượng tái tạo và tận dụng tiềm năng năng lượng tái tạo của Việt Nam, việc đẩy mạnh truyền thông về động lực mới của lĩnh vực này là vô cùng quan trọng. Điều này bao gồm việc bảo vệ môi trường, phát triển công nghệ sản xuất sạch và sử dụng năng lượng sạch nhằm đạt được mục tiêu.
Việt Nam có một lượng lớn tiềm năng về năng lượng tái tạo, bao gồm thủy điện, năng lượng gió, năng lượng mặt trời và năng lượng sinh khối. Tuy nhiên, nguồn cung cấp năng lượng truyền thống đang giảm dần do hạn chế trong nguồn cung và nhu cầu ngày càng tăng cao. Do đó, việc khuyến khích các dự án FDI xanh tại Việt Nam trở nên vô cùng quan trọng, khi mà lĩnh vực năng lượng xanh vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và ưu điểm của đất nước, đặc biệt trong bối cảnh tình trạng suy thoái môi trường đang gia tăng.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng có bốn yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu suất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trong chuỗi cung ứng năng lượng tái tạo, gồm: môi trường nội bộ của doanh nghiệp, áp lực từ người dùng, sự hợp tác với nhà cung cấp và quy định về môi trường. Nghiên cứu này dựa trên việc tổng hợp dữ liệu từ 395 cuộc khảo sát tại các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Việt Nam, và sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu một phần để đánh giá kết quả thống kê.
Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực năng lượng, bất kể là công nghệ cao hay thấp, cũng như các doanh nghiệp trong lĩnh vực hàng hóa môi trường, đều có tiềm năng mang lại lợi ích cho môi trường của Việt Nam và góp phần đạt được các mục tiêu tăng trưởng bền vững.
Vì vậy, cần áp dụng đồng thời các biện pháp sau đây để thúc đẩy hoạt động phát triển năng lượng tái tạo của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam:
Thứ nhất, cần có chính sách khuyến khích, thu hút doanh nghiệp FDI vào lĩnh vực phát triển năng lượng tái tạo. Ngay từ khâu kêu gọi, xúc tiến đầu tư, điều quan trọng là phải tạo dựng được hệ thống phối hợp giữa các Bộ, ngành, các ngành, địa phương lựa chọn, đề xuất lĩnh vực và địa điểm ưu tiên đầu tư.
Thứ hai, cần tiếp tục công bố hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp, tạo điều kiện đầu tư thuận lợi, đảm bảo thủ tục liên ngành đồng bộ, thuận lợi. Cần đặt ra các tiêu chuẩn cụ thể cho các dự án năng lượng tái tạo để tạo điều kiện cho việc cấp vốn cho các dự án thông qua cơ chế một cửa.
Thứ ba, nghiên cứu và triển khai nhiều phương pháp, quy định nhằm thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, như ưu đãi thuế đầu tư, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn và giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất dự án năng lượng tái tạo. Một vấn đề nữa là các doanh nghiệp nước ngoài không thể phát triển năng lượng tái tạo nếu không có các doanh nghiệp trong nước cung cấp các thiết bị cần thiết, do đó các nhà đầu tư lớn vẫn đang tìm kiếm đối tác đủ mạnh trong nước cũng như kết nối với thế giới để tìm kiếm nguồn cung cấp thiết bị, hỗ trợ giảm chi phí sản xuất điện năng.
Thứ tư, cần thiết phải có một lộ trình phát triển năng lượng tái tạo rõ ràng và chính sách minh bạch hơn. Điều này giúp nhà đầu tư nắm rõ chiến lược và chính sách, đồng thời đảm bảo rằng dự án được triển khai đúng tiến độ để thu hút đầu tư.
Những biện pháp này sẽ giúp Việt Nam tận dụng tiềm năng lớn trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời đảm bảo bảo vệ môi trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
Phuong, P., Duong, N. & Ha, N. (2022). Factors affecting the performance of foreign direct investment in the renewable energy supply chain. Uncertain Supply Chain Management, 10(1), 271-276.
https://www.growingscience.com/uscm/Vol10/uscm_2021_86.pdf
>>> GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
| TS. Phạm Thu Phương hiện là Chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế Thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế thuộc Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, giảng dạy các môn học Đầu tư quốc tế, Công ty xuyên quốc gia, Đàm phán kinh doanh quốc tế. Định hướng nghiên cứu của bà gồm lĩnh vực đầu tư quốc tế, công ty xuyên quốc gia, quản lý tài chính... |