Trang tin tức sự kiện
 
Thao túng báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện hành lang pháp lý

Các hành vi thao túng báo cáo tài chính (BCTC) là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự mất cân xứng trên thị trường tài chính, làm suy giảm uy tín, lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia thị trường và các cơ quan quản lý, giám sát thị trường. Tùy theo mức độ thao túng BCTC khác nhau mà có thể dẫn đến những tác động tiêu cực khác nhau, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh, bền vững của thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.


Tại Việt Nam, thao túng BCTC đến nay không còn là hiện tượng cá biệt bởi thực tế có rất nhiều vụ việc ở quy mô lớn đã xảy. Do đó, những đề xuất giải pháp được TS. Nguyễn Thị Hương Liên và nhóm nghiên cứu thuộc Khoa Kế toán Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN nêu ra trong cuốn sách chuyên khảo “Thao túng báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” được đánh giá là có giá trị trong việc góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý đối với thao túng BCTC trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Cuốn sách được thực hiện trong khuôn khổ đề tài NCKH cấp ĐHQG về “Thao túng báo cáo tài chính của các công ty niêm yết và tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam” (mã số QG.16.57) do nhóm nghiên cứu Khoa Kế toán Kiểm toán, Trường ĐH Kinh tế, ĐHQG Hà Nội thực hiện.

Để đưa ra được những giải pháp cụ thể, nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu các vấn đề trọng yếu sau:

Thứ nhất, nhận diện được các hành vi thao túng BCTC phổ biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Dựa trên cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu về thao túng BCTC, nghiên cứu đã khảo sát về mức độ phổ biến của 43 hành vi thao túng BCTC, được chia thành 04 nhóm hành vi có ảnh hưởng đến bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh BCTC, sử dụng thang đo Likert 5 cấp độ để đo lường mức độ phổ biến của các hành vi thao túng BCTC. Nhìn chung, các nhà đầu tư đều cho rằng các hành vi thao túng BCTC trên thị trường chứng khoán Việt Nam được thực hiện phổ biến và rất phổ biến. Mức điểm đánh giá chung là 3.490 và 35/43 hành vi được khảo sát có mức điểm trên 3 cho thấy thực trạng các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam thường sử dụng rất nhiều hành vi thao túng BCTC khác nhau để điều chỉnh số liệu tài chính theo mong muốn. Kết quả khảo sát các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy 5 hành vi thao túng BCTC phổ biến nhất của các công ty niêm yết bao gồm: (1) ghi nhận nợ phải thu (và doanh thu) quá mức; (2) điều chỉnh các khoản trích lập dự phòng để ghi giảm chi phí; (3) chuyển thu nhập của kỳ này sang kỳ sau; (4) không ghi nhận chi phí phải trả (thực tế đã phát sinh nhưng chưa nhận được hóa đơn) và (5) không công bố đầy đủ giao dịch với các bên liên quan.

Thứ hai, làm rõ các dấu hiệu nhận biết và các nhân tố ảnh hưởng đến thao túng BCTC của công ty niêm yết: Các dấu hiệu cảnh báo hành vi thao túng BCTC được tổng hợp thành các dấu hiệu cảnh báo ghi nhận doanh thu sớm, ghi nhận doanh thu ảo, sử dụng nghiệp vụ không thường xuyên, chuyển chi phí kỳ này sang kỳ sau, sử dụng các kỹ thuật khác để che giấu chi phí hoặc che giấu lỗ. Kết quả khảo sát các nhà đầu tư cho thấy các nhân tố có ảnh hưởng nhiều nhất tới các hành vi thao túng BCTC của các công ty niêm yết bao gồm:

  • Hoàn thành các chỉ tiêu tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận để được khen thưởng và các phúc lợi khác.
  • Đòn bẩy tài chính cao, khó tiếp cận vốn vay ngân hàng.
  • Ban giám đốc gây sức ép với nhân viên hoàn thành chỉ tiêu kinh doanh bằng mọi giá.
  • Cơ chế giám sát của kiểm toán nội bộ còn hạn chế do chưa đảm bảo tính độc lập, khách quan.
  • Ban giám đốc quá chú trọng việc tăng giá của cổ phiếu.

Thứ ba, phân tích tác động kinh tế của thao túng BCTC của các công ty niêm yết: Kết quả khảo sát cho thấy thao túng BCTC có thể gây thiệt hại trước hết đối với các nhà đầu tư, cụ thể, nhà đầu tư bị thiệt hại do việc ra quyết định mua, bán cổ phiếu sai lầm. Điều này dẫn đến hậu quả nhà cho vay không thu hồi được nợ do quyết định cho vay sai lầm. Bên cạnh đó, thao túng BCTC còn gây tác động tiêu cực với chính bản thân doanh nghiệp, biểu hiện ở giá cổ phiếu sụt giảm, làm giảm mức vốn hóa thị trường; đồng thời, bị sụt giảm doanh số do khách hàng mất lòng tin và chuyển sang nhà cung cấp khác. Các doanh nghiệp còn có thể mất cơ hội kinh doanh, bị giảm khả năng sinh lời do bị nhà cho vay từ chối cho vay.

Thứ tư, làm rõ các hành vi kế toán sáng tạo thông qua các nghiệp vụ ngoại bảng tại Hoa Kỳ cũng như phân tích được nguyên nhân sụp đổ, động cơ thực hiện kế toán sáng tạo của các vụ bê bối tài chính lớn trên thế giới nhằm đúc rút kinh nghiệm cho các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đó là bài học về quản trị nội bộ, cách thức ứng phó khủng hoảng của ban điều hành cấp cao và tăng cường giám sát chất lượng thông tin BCTC nhằm ổn định môi trường kinh doanh và minh bạch hóa thông tin của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngoài ra, qua nghiên cứu bốn trường hợp thao túng BCTC điển hình tại các thị trường mới nổi (Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan), nghiên cứu đã tổng hợp được các hành vi gian lận phổ biến, làm rõ cách thức thực hiện hành vi gian lận, phân tích mức độ tinh vi trong việc thực hiện các hành vi gian lận giữa các quốc gia, đồng thời xác định được mức độ thiệt hại khi các công ty cố tình thực hiện hành vi thao túng BCTC.

Thứ năm, nghiên cứu các gian lận BCTC điển hình của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015, từ đó cho thấy có nhiều lý do khiến các bản BCTC không minh bạch và một trong số đó là cổ phiếu bị đánh giá quá cao. Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên ban lãnh đạo công ty buộc phải tạo ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản ứng tiêu cực từ thị trường. Mặt khác, ban lãnh đạo công ty cũng nắm giữ một số lượng lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ phiếu bị sụt giảm. Những lý do này khiến các nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những thủ thuật để làm đẹp BCTC, và đây được coi là biện pháp đối phó hữu hiệu nhằm tạo ra ảo tưởng công ty đang làm ăn phát đạt.

Thứ sáu, phân tích thực trạng cơ sở pháp lý trong giám sát thông tin công bố của các công ty niêm yết. Hiện nay khung pháp lý trong lĩnh vực chứng khoán đã từng bước được bổ sung và hoàn thiện, đồng bộ từ luật đến các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành luật, các quy định xử phạt, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ban, ngành. Đồng thời, các thông tư và quyết định được sửa đổi, bổ sung và thay thế, đảm bảo tính cập nhật theo các diễn biến trên thị trường và thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp, khắc phục các điểm chưa chặt chẽ và chưa hợp lý còn tồn tại. Tuy nhiên, phạm vi, đối tượng thanh tra, kiểm tra ngày càng rộng, khối lượng công việc ngày càng lớn, các vi phạm trên thị trường ngày càng tinh vi, phức tạp, khó phát hiện và xử lý, trong khi thẩm quyền của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) và các cơ quan, đơn vị liên quan còn hạn chế, quy trình thực hiện và phối hợp giám sát giữa các bên chưa hoàn thiện.

Từ đó, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hành lang pháp lý đối với thao túng BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam như sau:

Trước hết, đối với các công ty niêm yết, cần sớm áp dụng chuẩn mực lập và trình bày BCTC quốc tế (IFRS) để tăng cường trách nhiệm giải trình và nâng cao tính minh bạch của BCTC. Đồng thời, cần quy định vai trò của bộ phận kiểm toán nội bộ đối với việc kiểm tra, soát xét BCTC trước khi công bố; yêu cầu thiết lập Ủy ban kiểm toán trong các đơn vị có lợi ích công chúng. Bên cạnh đó, các thông tin tài chính trong bản cáo bạch của tổ chức phát hành và BCTC quý của các tổ chức niêm yết cần phải được kiểm tra, soát xét. Hệ thống kiểm soát nội bộ của các đơn vị có lợi ích công chúng cần phải được kiểm tra, soát xét bởi doanh nghiệp kiểm toán.

Đối với cơ quan quản lý Nhà nước, Bộ Tài chính, UBCK Nhà nước và Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cần phối hợp xây dựng bộ chỉ số chất lượng kiểm toán để đảm bảo tính lành mạnh trong cạnh tranh giá phí kiểm toán, nâng cao chất lượng kiểm toán và các thông tin được công bố trên thị trường chứng khoán. Bộ chỉ số giúp đơn vị được kiểm toán và các cổ đông lựa chọn được doanh nghiệp kiểm toán có các chỉ số tốt, thể hiện khả năng cung cấp dịch vụ kiểm toán chất lượng cao. Bộ chỉ số sẽ cung cấp cơ sở thống nhất cho việc so sánh chất lượng giữa các cuộc kiểm toán và giữa các doanh nghiệp kiểm toán.

Ngoài ra, UBCKNN cần tổ chức thường xuyên hoặc định kỳ việc cảnh báo các vấn đề dễ có khả năng gian lận hoặc cần tập trung kiểm tra trong từng giai đoạn/thời kỳ với doanh nghiệp kiểm toán được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích thuộc lĩnh vực chứng khoán. Thêm vào đó, cần quy định các hình thức xử phạt hành vi thao túng BCTC nghiêm khắc hơn bởi hiện nay, các biện pháp xử phạt hành vi thao túng BCTC chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng, ví dụ, các mức phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán trong Nghị định 105/2013/NĐ-CP đưa ra mức phạt tiền còn thấp, chưa đủ sức răn đe.

 


THÔNG TIN VỀ CUỐN SÁCH:

Chủ biên: TS. Nguyễn Thị Hương Liên, Trường Đại học Kinh tế, ĐHQG Hà Nội

Tập thể tác giả: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy, TS. Đỗ Kiều Oanh, TS. Nguyễn Thị Thanh Hải, ThS. Nguyễn Thị Hải Hà, ThS. Đỗ Quỳnh Chi (Trường Đại học Kinh tế, ĐHQG Hà Nội); TS. Nguyễn Thị Phương Dung (Trường Đại học Bách khoa Hà Nội); TS. Nguyễn Hà Linh (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân), TS. Bùi Thị Tĩnh (Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Đại Việt).

Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội

Khổ sách: 16 x 24 cm

Thời gian xuất bản: 08/2020

Số trang: 256 trang

 

Chủ biên cuốn sách:
 

TS. Nguyễn Thị Hương Liên hiện là Phó Trưởng Khoa Kế toán Kiểm toán, Trường ĐH Kinh tế, ĐHQG Hà Nội. Bà nhận bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ Kinh tế tại Nhật Bản và là Hội viên Hội Kế toán Công chứng Anh quốc (ACCA). Hướng nghiên cứu chính của bà là các phương pháp quản trị chi phí hiện đại, thao túng báo cáo tài chính và chất lượng dịch vụ kiểm toán độc lập. Bà đã có trên 10 năm kinh nghiệm làm kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ ngân hàng, đồng thời trực tiếp tham gia giảng dạy các khóa đào tạo ngắn hạn cho các tập đoàn, doanh nghiệp về hệ thống kế toán, kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ.