Đẩy nhanh tự chủ tài chính trong các trường đại học công lập

Tự chủ là xu thế tất yếu để thúc đẩy phát triển giáo dục đại học (GDĐH); là con đường để chuyển đổi cơ chế quản lý hệ thống GDĐH từ mô hình nhà nước điều hành sang mô hình nhà nước giám sát. Tự chủ đại học (TCĐH) tập trung vào 4 khía cạnh chính: (i) Học thuật; (ii) Nhân sự; (iii) Tài chính; (iv) Quản trị tổ chức; trong đó, tự chủ tài chính là yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất. Tự chủ, đặc biệt là tự chủ tài chính, là thước đo trình độ quản lý của các trường, sự đổi mới cách điều hành của Chính phủ đối với sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng đào tạo đại học của Việt Nam.



Kể từ khi thực hiện chủ trương tự chủ thì vấn đề tự chủ tài chính trong các trường đại học công lập luôn là một nội dung được thảo luận sôi nổi nhất tại nhiều diễn đàn giáo dục và cũng là vấn đề nan giải nhất của các trường đại học trên lộ trình thực hiện tự chủ.

Trong những năm qua, các trường đại học công lập đang thực hiện các quy định về quyền tự chủ tài chính theo các văn bản: Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015; Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ. Trong đó, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định về tự chủ có nhiều điểm mới và tích cực hơn so với nghị định số 43/2006/NĐ-CP, tuy nhiên các trường đại học vẫn chưa có nhiều quyền tự chủ, do vẫn phải phụ thuộc rất nhiều vào các quyết định hành chính của cơ quan chủ quản. Nghị quyết số 77 chỉ áp dụng đối với các trường thực hiện thí điểm tự chủ. 

Từ những hạn chế của các văn bản quy định về tự chủ đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp công lập, Chính phủ đã ban hành hành Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 “Quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập”, đó là một bước tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện cho các trường đại học đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ tài chính. Nghị định số 60/2021/NĐ-CP quy định rõ điều kiện đối với các trường đại học công lập thực hiện tự chủ tài chính. Cụ thể, cơ sở GDĐH được thực hiện cơ chế tự chủ theo quy định của pháp luật về GDĐH khi đáp ứng đủ điều kiện sau đây: 

  • Đã thành lập Hội đồng trường, Hội đồng Đại học và được tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục hợp pháp công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở GDĐH. 
  • Đã ban hành và tổ chức thực hiện quy chế hoạt động của Hội đồng trường hoặc Hội đồng Đại học; quy chế phối hợp giữa Hội đồng trường hoặc Hội đồng Đại học, Đảng ủy và nhà trường; quy chế tổ chức và hoạt động; quy chế dân chủ; quy chế quản lý đào tạo, khoa học công nghệ, học sinh sinh viên, tài chính tài sản và có chính sách bảo đảm chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng do Nhà nước quy định. 
  • Thực hiện phân quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình đến từng đơn vị, cá nhân trong cơ sở GDĐH. 
  • Xây dựng đề án tự chủ và thực hiện công khai đầy đủ các điều kiện bảo đảm chất lượng, kết quả kiểm định, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm và các thông tin khác theo quy định của pháp luật.

Nhóm 1: Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư là những đơn vị có mức tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên bằng hoặc lớn hơn 100%; có mức tự bảo đảm chi đầu tư bằng hoặc lớn hơn mức trích khấu hao và hao mòn tài sản cố định của đơn vị hoặc đơn vị cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, giá dịch vụ sự nghiệp công xác định theo cơ chế thị trường, có tính đủ khấu hao tài sản cố định và có tích lũy dành chi đầu tư.

Nhóm 2: Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên là những đơn vị có mức tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên bằng hoặc lớn hơn 100% và chưa tự bảo đảm chi đầu tư từ nguồn Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Nguồn thu phí được để lại chi theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí, các nguồn tài chính hợp pháp khác theo quy định của pháp luật và những đơn vị thực hiện cung cấp dịch vụ sự nghiệp công thuộc danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN), được Nhà nước đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá tính đủ chi phí.

Nhóm 3: Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên là đơn vị có mức tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên từ 10% đến dưới 100%, được Nhà nước đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá chưa tính đủ chi phí và được chia thành 3 mức độ: Đơn vị tự bảo đảm từ 70% đến dưới 100% chi thường xuyên; Đơn vị tự bảo đảm từ 30% đến dưới 70% chi thường xuyên; Đơn vị tự bảo đảm từ 10% đến dưới 30% chi thường xuyên.

Nhóm 4: Đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên là những đơn vị sự nghiệp công có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên dưới 10% và những đơn vị sự nghiệp công không có nguồn thu sự nghiệp.

Chính phủ cũng quy định lộ trình giao quyền tự chủ tài chính cho các trường đại học công lập trong giai đoạn ổn định 5 năm, phù hợp với giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội, sau đó theo lộ trình các trường phải thực hiện chuyển mức độ tự chủ lên mức cao hơn.

Khuyến nghị chính sách

Tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập là xu hướng tất yếu, nhất là khi nguồn thu NSNN còn hạn chế, các cơ sở giáo dục đại học không thụ động, trông chờ, ỷ lại vào NSNN, mà chủ động, sáng tạo trong việc huy động các nguồn lực, tự tìm hướng đi mới cho mình phát triển. Tuy nhiên, do hiểu chưa đầy đủ về tự chủ tài chính đã làm gia tăng áp lực cho các cơ sở GDĐH tìm mọi cách để tăng nguồn thu gây không ít khó khăn cho người học, bởi học phí hiện nay đang vượt quá khả năng chi trả của người dân, vì vậy rất cần có sự hỗ trợ từ Chính phủ và các cơ quan hữu quan đối với người học. 

Để làm tốt công tác tự chủ, nhất là tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, mở rộng liên kết hướng tới phát triển nhà trường một cách vững chắc, cần quan tâm đến một số nội dung sau:

1. Nhà nước tăng NSNN cho GDĐH đi đôi với đổi mới cách phân bổ ngân sách theo hướng đầu tư trực tiếp cho người học.

Trên cơ sở phân tích, dự báo nhu cầu về nguồn nhân lực trình độ cao cho mỗi giai đoạn, đối với từng ngành nghề, từng địa phương mà ưu tiên các chương trình, đề án đào tạo phát triển nguồn nhân lực nhà nước cần phục vụ những ngành nghề trọng điểm; những lĩnh vực có tác động đến toàn hệ thống.  

Tính đúng, tính đủ và công bố công khai mức chi phí cho giáo dục và đào tạo với từng cấp học, ngành học; trên cơ sở đó xác định rõ mức đầu tư cho từng lĩnh vực, từng ngành nghề, từng đối tượng; xác định mức học phí và lộ trình tăng học phí đối với mỗi nhóm ngành; loại trường; cấp học.

Rà soát các văn bản ảnh hưởng trực tiếp tới cơ chế thực hiện tự chủ tài chính tại các cơ sở GDĐH. Trên cơ sở đó, kiến nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi các luật, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tự chủ của cơ sở GDĐH và chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đầu tư và tài trợ, xã hội hóa trong GDĐH.

Xây dựng khuôn khổ pháp lý bảo đảm cho việc chi tiêu và giải ngân kinh phí của nhà trường một cách linh hoạt, cho phép điều chuyển ngân sách giữa các khoản chi và tăng tính tự quyết định về các nguồn thu và chi để tăng khả năng ứng phó cho trường đại học. 

Mở rộng đối tượng vay vốn, trước hết là những hộ gia đình có thu nhập trung bình thấp. Về lâu dài, tất cả sinh viên có nhu cầu đều được vay vốn học tập, không phân biệt có khó khăn hay không. 

Thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số, người ở vùng sâu, vùng xa về mức học phí…, tạo điều kiện cho mọi người đều được tiếp cận dịch vụ GDĐH; hỗ trợ NSNN theo người học cần thực hiện công bằng, không phân biệt người học ở trường công hay tư. 

Quy định mức vay dựa trên học phí trung bình của các trường đại học công lập đã thực hiện tự chủ toàn diện và trường đại học dân lập, cộng với chi phí trung bình của người học, giảm lãi suất vay đối với những đối tượng sinh viên nghèo xuống mức 2%/năm. 

Đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục theo hướng đầu tư trực tiếp cho người học thông qua thẻ tín dụng, những đối tượng được nhà nước bao cấp thì bao cấp đủ ngưỡng, những đối tượng không được bao cấp thì chi trả đầy đủ để người học có quyền lựa chọn dịch vụ GDĐH phù hợp. 

Giao ngân sách cho các trường trên cơ sở đã xác định rõ các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật trong đào tạo, định mức phân bổ chi phí đào tạo. Ưu tiên đầu tư và giao nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học bằng NSNN cho các trường được xếp hạng quốc tế cao. 

Thực hiện cơ chế đặt hàng đối với đào tạo đại học theo nhu cầu của nhà nước; đấu thầu các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Tất cả các cơ sở GDĐH đều được tham gia vào quy trình tuyển chọn kinh phí đặt hàng đào tạo từ NSNN. 

Thành lập quỹ đầu tư phát triển để cho vay đầu tư phát triển dài hạn giúp các trường chủ động xây dựng chiến lược phát triển nhà trường. 

2. Các bộ, ngành cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn, các tiêu chí đánh giá mức độ và chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị được giao tự chủ nhằm tháo gỡ khó khăn về cơ chế, chính sách trong quá trình các trường thực hiện tự chủ.

Tăng cường kiểm tra, giám sát, rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các tiêu chuẩn, định mức và mở rộng lĩnh vực giao quyền tự chủ cho các đơn vị. 

3. Tăng cường trách nhiệm giải trình của các trường tự chủ, nhất là về tài chính về tính công khai, minh bạch… nhằm đảm bảo các trường đại học hoạt động theo đúng luật pháp. Các cơ sở GDĐH công lập cần tính đủ chi phí tiền lương và chi phí hoạt động thường xuyên và các chi phí khác liên quan đến hoạt động của nhà trường trên cơ sở khung giá do Nhà nước quy định, đảm bảo nguyên tắc lấy thu đủ bù đắp chi phí đào tạo từ đó quy định mức học phí.

Các trường xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ chi tiết, đảm bảo tính công khai, dân chủ và công bằng; xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của từng người lao động. Trong đó, chú trọng giải pháp chi trả thu nhập theo chất lượng và hiệu quả công việc nhằm khuyến khích, hấp dẫn, thu hút người có năng lực, có trình độ cống hiến nhiều nhất cho nhà trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chính phủ (2014). Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với một số cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014-2017.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Hội nghị Tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ giai đoạn 2014-2017.

Chính phủ (2015). Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005: Nghị định quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước.

Chính phủ (2015). Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

Chính phủ (2015). Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.

Tạp chí Tài chính (2018). Tự chủ tài chính giáo dục đại học và một số vấn đề đặt ra. < https://tapchitaichinh.vn/tu-chu-tai-chinh-giao-duc-dai-hoc-va-mot-so-van-de-dat-ra.html> Truy cập ngày 20.7.2023.

Lê Hoài (2022). Cơ chế tự chủ tài chính đối với trường đại học công lập. Tạp chí Tài chính. Truy cập ngày 20.7.2023.

Võ Đức Toàn (2022). Tự chủ tài chính đại học công lập: vấn đề tài chính đối với người học. Tạp chí Công thương. Truy cập ngày 20.7.2023.

Lương Vân Hà, Vũ Thanh Nguyên (2022). Quản lý tự chủ tài chính đại học: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Dự báo Truy cập ngày 20.7.2023.

Chính phủ (2021), Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Báo cáo tổng kết năm học 2020-2021.

Mạnh Xuân (2023). Tháo gỡ khó khăn khi tự chủ tài chính trong giáo dục đại học. Báo Nhân Dân. < https://nhandan.vn/thao-go-kho-khan-khi-tu-chu-tai-chinh-trong-giao-duc-dai-hoc-post731848.html> Truy cập ngày 20.7.2023.

Thủy Tiên (2023). Đại học tự chủ tài chính không có nghĩa là tự túc nguồn kinh phí. Tạp chí Giáo dục Việt Nam. Truy cập ngày 20.7.2023.


Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN


Các tin khác

<12>