Áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, liệu dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có đổi hướng?

Tư vấn này được dẫn từ Dự án “Ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”, nằm trong chuỗi Báo cáo tư vấn chính sách của Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Mục tiêu chung của Dự án là phân tích ảnh hưởng của GMT đến FDI vào Việt Nam, từ đó đưa ra các hàm ý chính sách cho Việt Nam nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Dự án được thực hiện bởi Nhóm nghiên cứu mạnh về Hội nhập Kinh tế quốc tế của ĐHQGHN.



Áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ ngày 1/1/2024 

Nhằm thực hiện Sáng kiến chống xói mòn cơ sở thuế, ngày 09/7/2021, Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G20 đã thống nhất về nguyên tắc Giải pháp 2 Trụ cột nhằm giải quyết các thách thức về thuế phát sinh trong quá trình số hóa nền kinh tế (gọi tắt là Thỏa thuận thuế tối thiểu toàn cầu). Trong đó, trụ cột thứ hai đặt ra mức thuế thu nhập doanh nghiệp hiệu dụng (ETR) tối thiểu toàn cầu 15% đối với các công ty đa quốc gia, nhằm ngăn chặn các công ty này chuyển lợi nhuận sang quốc gia có thuế suất thấp để tránh thuế thu nhập. Ngày 29/11/2023, Quốc hội Việt Nam đã chính thức thông qua Nghị quyết về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế (thuế tối thiểu) toàn cầu. Thuế suất sẽ áp dụng 15% với các doanh nghiệp đa quốc gia có tổng doanh thu hợp nhất từ 750 triệu Euro (khoảng 800 triệu USD) trở lên trong 2 năm của 4 năm liền kề nhất. Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2024, áp dụng từ năm tài chính 2024. Theo tính toán sơ bộ của Tổng Cục Thuế, có hơn 120 tập đoàn nước ngoài (với trên 1.000 doanh nghiệp) đầu tư vào Việt Nam chịu ảnh hưởng của quy định này.

Thế khó cho Việt Nam

Theo đánh giá của các chuyên gia, mức thuế suất tối thiểu 15% sẽ tác động tới Việt Nam khi hiện tại, nước ta đang thực hiện nhiều chính sách ưu đãi về thuế với các nhà đầu tư FDI, khiến số thuế thực nộp của nhóm đối tượng này dưới 15%. Khoản thuế suất mới làm dấy lên mối lo ngại về việc giảm sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các công ty FDI bởi cơ chế miễn giảm thuế là một trong những điểm hấp dẫn trong công cuộc thu hút dòng vốn nước ngoài. Trong nhiều năm qua, ưu đãi miễn, giảm thuế là công cụ quan trọng trong thu hút FDI tại Việt Nam. Việt Nam đã điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông từ mức 32%, xuống các mức 28%, 25%, 22% và hiện tại là 20%; đồng thời áp dụng nhiều chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp thuộc diện ưu đãi cả về thuế suất và thời gian thì mức thuế suất thực tế thấp hơn 15%. 

Với thỏa thuận GMT, các doanh nghiệp FDI thuộc đối tượng điều chỉnh phải nộp phần thuế bổ sung về quốc gia của công ty mẹ tối cao, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn cũng như kế hoạch sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp này, đồng thời ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, từ đó tác động đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Do đó, khi các nhà đầu tư không còn mặn mà với Việt Nam do Việt Nam thu bổ sung thêm thuế nội địa, lúc này các nhà đầu tư, các tập đoàn lớn sẽ quan tâm đến các lợi thế khác của mỗi quốc gia: cơ sở hạ tầng, chi phí nhân công, hỗ trợ của chính phủ, chính sách pháp luật bảo vệ, thủ tục hành chính đơn giản, các chính sách ưu đãi mới… Đây lại là những điểm yếu của Việt Nam trong thu hút FDI dù đã cải thiện đáng kể trong những năm qua. 

Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của GMT tại Việt Nam còn tùy thuộc vào mục tiêu đầu tư của các doanh nghiệp, mức độ ưu đãi thông qua biện pháp giảm thuế suất và khấu trừ thuế cũng như quy mô doanh thu hợp nhất toàn cầu. Thỏa thuận GMT được cho là có cả tác động tích cực và tiêu cực đến Việt Nam. 

Điều chỉnh chính sách để thích ứng với bối cảnh mới

Việc áp dụng GMT tại Việt Nam, cùng với các biện pháp chủ động và giải pháp thích hợp nhằm hỗ trợ cho các đối tượng chịu tác động của GMT có ý nghĩa rất quan trọng. Việc triển khai áp dụng GMT chính là cơ hội để thúc đẩy cải cách thuế và cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Đây mới thực sự là động lực cho sự phát triển bền vững và tích cực hội nhập của Việt Nam.

Để thực hiện GMT hiệu quả, cần xây dựng và hoàn thiện các quy định có liên quan đến GTM: Chính phủ cần nhanh chóng ban hành Nghị định về việc thành lập, quản lý và sử dụng quỹ hỗ trợ đầu tư từ nguồn thu thuế tối thiểu toàn cầu và các nguồn hợp pháp khác để ổn định môi trường đầu tư, khuyến khích thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đối với một số lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư. Chính phủ cũng cần xây dựng Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), bổ sung vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh 2024 để có thể áp dụng từ năm tài chính 2025. Việc này nhằm đảm bảo giữ quyền đánh thuế với các khoản thanh toán chịu thuế dưới mức tối thiểu của Việt Nam theo quy định về GMT. Hiện nay, Luật Thuế TNDN chưa được sửa đổi nên sau khi Nghị quyết về GMT có hiệu lực thi hành, các tập đoàn đa quốc gia có đầu tư mới vào Việt Nam sẽ bị điều chỉnh bởi Luật Thuế TNDN và cả Nghị quyết này, theo đó nhà đầu tư trước tiên sẽ vẫn được hưởng ưu đãi miễn giảm theo quy định của Luật Thuế TNDN hiện hành, sau đó sẽ phải nộp lại khoản ưu đãi miễn giảm thuế này theo quy định của Nghị quyết về thuế tối thiểu toàn cầu và đồng thời có thể sẽ lại được xử lý hỗ trợ bổ sung ngoài thuế.

Để bù đắp một phần cho các đối tượng chịu tác động bởi GMT, Việt Nam cần có chính sách, biện pháp ứng xử phù hợp đối với hai nhóm nhà đầu tư: (i) Đối với các nhà đầu tư FDI đang hoạt động tại Việt Nam (có thể có hỗ trợ về tiền thuê đất, cho phép tính một số khoản được khấu trừ thuế, đào tạo nguồn nhân lực, chi phí R & D, giải phóng mặt bằng, nhà ở công nhân...; nên áp dụng mức độ khác nhau với nhóm nhà đầu tư, loại dự án khác nhau); (ii) Đối với các nhà đầu tư FDI sẽ vào Việt Nam từ đầu năm 2024 (có thể áp dụng một số chính sách hỗ trợ tương tự, thậm chí cao hơn đối với các lĩnh vực ưu tiên thu hút FDI). 

Cần sớm rà soát, cập nhật và sửa đổi các quy định pháp luật liên quan đến thu hút FDI. Các cơ chế, chính sách thu hút FDI cần theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các vấn đề về thể chế - vốn là các yếu tố cơ bản khi đưa ra các quyết định kinh doanh của nhà đầu tư; tiếp tục thực thi hiệu quả các định hướng, mục tiêu, giải pháp đề ra tại Nghị quyết 50 ngày 20/08/2019 của Bộ Chính trị và Quyết định 667/QĐ-TTg ngày 2/6/2022 về Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030. 

Chủ động nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, tạo đòn bẩy cho nâng cao sức chống chịu và phát triển kinh tế bền vững: (i) Tận dụng tốt hơn các cơ hội hội nhập để học hỏi và áp dụng công nghệ mới, chuyển giao công nghệ và thu hút vốn FDI, ODA một cách chủ động, sàng lọc vì mục tiêu chung thay vì cục bộ, địa phương; ưu tiên giải pháp gắn kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ; (ii) Đa dạng hóa thị trường, đối tác, có tính chiến lược, chọn lọc rõ ràng nhằm tận dụng cơ hội và hạn chế rủi ro tập trung, rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng; (iii) Chú trọng khai thác, sử dụng hiệu quả hơn vốn tri thức, đổi mới, sáng tạo, nhất là từ đội ngũ tri thức kiều bào (gồm cả việc tăng hiệu quả kết nối các nguồn lực trong và ngoài nước); (iv) Tăng cường hợp tác về thuế giữa các quốc gia nhằm chia sẻ thông tin, phối hợp hành động trong quản lý thuế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế, chống thất thu ngân sách nhà nước.

Khẩn trương ưu tiên kiện toàn và nâng cao năng lực công tác quản lý thuế, công tác cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh vì những công tác này ngày càng nhiều, ngày càng phức tạp, tinh vi, có tính hội nhập cao, xuyên biên giới, cạnh tranh (trong đó, cần ưu tiên phát triển đội ngũ cán bộ, đầu tư phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu, công tác thực thi, phối hợp chính sách trong nước và quốc tế...).

Xây dựng lộ trình triển khai áp dụng GMT tại Việt Nam theo từng bước. Trước hết, Bộ Tài chính cần ban hành Hướng dẫn toàn diện việc thực hiện GMT theo gợi ý của OECD, có điều chỉnh phù hợp hoàn cảnh của Việt Nam. Tiếp đến cần nội luật hóa các quy định, quy trình – thủ tục kê khai thuế phù hợp khi áp dụng thuế suất này; đồng thời có kế hoạch truyền thông, tuyên truyền, tập huấn các chính sách, quy trình liên quan, cũng như quy định về giải quyết tranh chấp liên quan, có nghiên cứu bổ sung cơ chế trọng tài để giải quyết tranh chấp...

>>> NHÀ TƯ VẤN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐHQGHN

PGS.TS. Nguyễn Anh Thu

TS. Nguyễn Thị Vũ Hà

TS. Nguyễn Thị Thanh Mai

>>> TOÀN VĂN 

Ấn phẩm Tư vấn Chính sách, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN


Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN