Báo cáo Kinh tế Thường niên Việt Nam 2023: Liên kết và phát triển doanh nghiệp hướng tới nền kinh tế tự chủ

Với chủ đề “Liên kết và phát triển doanh nghiệp hướng tới nền kinh tế tự chủ”, Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2023 chỉ ra tính tự chủ của nền kinh tế Việt Nam chưa cao, khi các chỉ số đảm bảo tăng trưởng bền vững với sức cạnh tranh doanh nghiệp đều suy giảm trong điều kiện các yếu tố kinh tế quốc tế không thuận lợi, kèm theo những vấn đề nội tại kinh tế chưa được xử lý triệt để. Do đó, trên cơ sở phân tích bối cảnh kinh tế Việt Nam năm 2022 – đầu năm 2023, Báo cáo đưa ra dự báo triển vọng kinh tế năm 2023 và các đề xuất chính sách nhằm nâng cao năng lực sản xuất, năng suất lao động, nâng giá trị sản phẩm, đồng thời chia sẻ những rủi ro và tăng khả năng chống chịu trước những khó khăn mà dịch bệnh cũng như các biến động mang tính toàn cầu mang lại. Chỉ thông qua liên kết thành công, doanh nghiệp Việt Nam mới phát triển và hướng tới nền kinh tế tự chủ, tự cường.



Bối cảnh kinh tế Việt Nam năm 2022 - đầu năm 2023

Kinh tế Việt Nam năm 2022, như trong nhiều báo cáo của các cơ quan Bộ ngành, đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vừa giữ được ổn định vĩ mô, vừa đạt được mục tiêu tăng trưởng. GDP Việt Nam tăng 8,02%, cao hơn mục tiêu tăng trưởng chính thức và nhanh nhất kể từ năm 1997, trong đó một số ngành vẫn duy trì tăng trưởng cao và ổn định như ngành sản xuất, chế biến thực phẩm, đồ uống… Tuy nhiên, một số ngành có xu hướng tăng trưởng chậm, thậm chí tăng trưởng âm do phải đối mặt với những khó khăn khi đơn hàng sụt giảm, chi phí đầu vào cao. Khu vực dịch vụ phục hồi và tăng trưởng đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022. Khu vực công nghiệp và xây dựng luôn được coi là động lực dẫn dắt tăng trưởng kinh tế của Việt Nam lại giảm tốc mạnh mẽ từ quý III/2022 cùng với một số ngành công nghiệp trọng điểm trong nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

Kinh tế thế giới đang hồi phục từ những tác động tiêu cực trong 3 năm qua, bao gồm đại dịch COVID-19, xung đột Nga-Ukraine, lạm phát và chính sách thắt chặt tài chính. Các tổ chức nghiên cứu như IMF và Ngân hàng Thế giới đã đưa ra dự báo không lạc quan về triển vọng tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2023 và tương lai. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ giảm xuống mức thấp nhất trong 30 năm qua, và điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm đói nghèo. Do những diễn biến phức tạp, dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 chỉ ở mức khá khiêm tốn. Tại Việt Nam, tăng trưởng kinh tế trong quý I/2023 không đạt kỳ vọng, đồng thời triển vọng tăng trưởng kinh tế năm 2023 đối mặt với các thách thức và cơ hội xen kẽ.

Các đối tác quốc gia và nền kinh tế lớn trên thế giới đều đang phải đối mặt với nhiều khó khăn. Kinh tế Mỹ mặc dù chưa rơi vào suy thoái như những lo ngại trước đây, nhưng do những phát sinh trong các tháng đầu năm 2023 như rủi ro hệ thống ngân hàng hay các bất ổn về vấn đề trần nợ công, hiện đang được xếp vào diện cần giám sát về nguy cơ bị hạ bậc xếp hạng tín nhiệm. Sự hồi phục của kinh tế Trung Quốc không được mạnh như kỳ vọng. Phép màu tăng trưởng kinh tế Trung Quốc dường như đã chấm dứt khi nền kinh tế nước này sau khi tăng đột biến trong quý I/2023 (dỡ bỏ chính sách zero-COVID) được dự báo không mấy khả quan. Nguyên nhân đến từ sự suy yếu tín dụng và các khoản vay mới do người tiêu dùng và doanh nghiệp hạn chế vay mượn; xu hướng tiết kiệm hơn từ các hộ gia đình; tình trạng nhu cầu thụt giảm và lợi nhuận đi lùi của khối sản xuất. Kinh tế châu Âu giảm sút. Đức – kinh tế số một châu Âu và cũng là nền kinh tế lớn thứ tư thế giới chính thức lâm vào tình trạng suy thoái khi tăng trưởng âm hai quý liên tiếp (quý IV/2022 và quý I/2023). Điều này chắc chắn sẽ kéo theo hệ lụy ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế châu Âu, cũng như kinh tế toàn cầu. Kinh tế ASEAN tăng trưởng chậm lại. Chỉ số PMI khu vực giảm trong tháng 5/2023, chỉ đạt mức 51,1 điểm (giảm 1,6 điểm so với tháng 4). Động lực tăng trưởng ngành sản xuất khu vực ASEAN chậm lại khi cả số lượng đơn đặt hàng mới và sản lượng đều tăng chậm hơn. Ngoài ra, các công ty đã giảm số lượng việc làm tháng thứ ba liên tiếp. Niềm tin kinh doanh trong khu vực cũng giảm xuống mức thấp trong 34 tháng

Dù đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế năm 2022 cũng như những nỗ lực nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và phục hồi tăng trưởng trong các tháng đầu năm 2023, song nền kinh tế Việt Nam đã và đang bộc lộ những thách thức và vấn đề nội tại. Tính chung 5 tháng đầu năm, chỉ số IIP ước tính giảm 2% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số PMI mặc dù đã tăng lên 51,2 (tháng 2), tuy nhiên lại tiếp tục suy giảm trong những tháng tiếp theo, phản ánh khả năng tăng trưởng sản xuất của Việt Nam trong nửa đầu năm 2023 không mấy khả quan.

Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2023 cũng bộc lộ tính dễ bị tổn thương trước những biến động toàn cầu. Khu vực kinh tế tư nhân tuy nhiều về số lượng nhưng yếu về năng lực cạnh tranh; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chất lượng cao còn hạn chế. Do đó, sau những tháng khả quan ban đầu, từ giữa năm 2022 cho đến những tháng cuối năm 2023, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn do những biến động khó đoán định trên thế giới khiến chi phí đầu vào tăng cao bào mòn lợi nhuận, thị trường cả trong và ngoài nước sụt giảm nghiêm trọng; nhiều doanh nghiêp phải cắt giảm sản xuất, giảm lao động; số lượng doanh nghiệp tạm dừng hoạt động cũng có xu hướng tăng, do đó kéo theo nhiều hệ lụy xã hội.

Môi trường lãi suất cao đang là yếu tố rủi ro lớn đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, từ năm 2011-2020, Việt Nam chủ yếu là thặng dư cán cân vãng lai, tức Việt Nam là nước xuất khẩu vốn. Trong 2 năm 2021-2022, do phải chịu chi phí cho nhập khẩu thuốc và thiết bị phòng chống dịch COVID-19 cũng như chi phí vận tải tăng vọt, cán cân vãng lai trở nên bị âm nhưng về xu hướng dài hạn thì Việt Nam sẽ vẫn thặng dư cán cân vãng lai và vẫn là nước xuất khẩu vốn. Như vậy, Việt Nam hoàn toàn có dư địa để giảm lãi suất khi ở vị thế một nước xuất khẩu vốn.

Mặc dù kinh tế đối ngoại có những đóng góp quan trọng vào tăng trưởng giai đoạn trước và trong COVID-19, tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều vấn đề về chất lượng tăng trưởng, đặc biệt là sự đóng góp, tham gia của Việt Nam vào chuỗi giá trị sản xuất còn hạn chế. Trước hết, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam mặc dù có sự tăng trưởng tích cực trong thời gian qua, song khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn là lực lượng chủ yếu đóng góp đến hơn 70% kết quả xuất khẩu. Lợi thế cạnh tranh trong sản xuất và thương mại quốc tế Việt Nam nói chung vẫn dựa trên lợi thế về giá cả là chính, nhờ các chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế và lợi thế truyền thống về giá nhân công trong lĩnh vực sản xuất gia công – lắp ráp duy trì ở mức thấp, chứ không phải dựa vào việc nâng cao giá trị của chuỗi sản xuất, nhất là giá trị gia tăng từ cấu phần sản xuất trong nước. Đặc biệt, lợi thế so sánh trên của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu có nguy cơ bị tụt hậu, trong bối cảnh áp lực cạnh tranh quốc tế trong việc tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu ngày càng khốc liệt.

Dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2023

Những cơ hội, thuận lợi

Các chính sách điều hành nền kinh tế gần đây cho thấy những quyết tâm thúc đẩy kinh tế trong nước. Lãi suất giảm liên tục trong những tháng đầu năm và việc gia tăng hạn mức tín dụng tại một số ngân hàng được kỳ vọng góp phần giải quyết các khó khăn của khu vực sản xuất kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có yêu cầu các ngân hàng thương mại, ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố hướng dẫn một số nội dung và triển khai Chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết số 33 của Chính phủ, với quy mô khoảng 120.000 tỷ đồng vào ngày 03/04/2023. Đây cũng được coi là động thái quan trọng để kích cầu nền kinh tế trong bối cảnh cầu trong nước đang có dấu hiệu giảm sút so với cùng kỳ năm ngoái. Chính phủ vẫn đang tiếp tục nỗ lực đẩy nhanh giải ngân đầu tư công trong năm 2023. Sự gia tăng đầu tư công nói chung và những nỗ lực giải ngân vốn đầu tư công tại 17 Bộ, cơ quan Trung ương nói riêng là động thái quan trọng của kích cầu trong nước, động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

Nhiều tín hiệu tích cực đã xuất hiện. Thị trường chứng khoán Việt Nam đang cho thấy nền tảng khá vững khi kết thúc quý I/2023, với chỉ số VN-Index tăng trưởng 5,7% và được kỳ vọng sẽ tiếp tục khởi sắc. Điều này sẽ tạo thuận lợi hơn cho việc huy động nguồn vốn của các doanh nghiệp. Ngành du lịch tăng trưởng tích cực, tháng 4/2023 khởi đầu với sự gia tăng mạnh mẽ của khách du lịch trong và ngoài nước với nhiều hoạt động xúc tiến du lịch được đẩy mạnh. Sự hồi phục ngành du lịch dự kiến là động lực chính cho tăng trưởng khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam năm 2023. Ngoài ra, giá cả nhiên liệu thiết yếu như dầu thô vẫn giữ mức giá trung bình khá ổn định ở mức thấp, góp phần giảm chi phí sản xuất cũng như chi phí vận tải và các chi phí liên quan, qua đó góp phần giảm mức giá cả chung. Trong năm 2023, Việt Nam có những cơ hội để phát triển như gia tăng đóng góp số hóa, công nghệ cao vào tăng trưởng, quá trình chuyển đổi xanh, cơ hội trở thành trung tâm trung chuyển. Việc Trung Quốc mở cửa trở lại nền kinh tế sẽ làm tăng thêm cơ hội cho Việt Nam gia tăng xuất khẩu, đầu tư và du lịch.

Những thách thức – khó khăn

Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi, kinh tế Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn: 

  • Căng thẳng chính trị, xung đột Nga-Ukraine dự kiến vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp và gây ra những bất ổn, ảnh hưởng tiêu cực đến đà hồi phục của tăng trưởng toàn cầu và các đối tác đầu tư, thương mại lớn của Việt Nam như EU, Mỹ. Một số đối tác thương mại chính của Việt Nam vẫn đang gặp khó khăn trong hồi phục, dẫn đến sự giảm sút nhu cầu hàng hóa xuất khẩu trong nước, từ đó khó có thể cải thiện nhanh và ngay trong tương lai gần. 
  • Các ngành sản xuất, cộng đồng doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, đồng thời giá cả đầu vào thiết yếu tăng trở lại gây khó khăn thêm cho quá trình hồi phục. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp chưa phát huy tác dụng, trong khi nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn bên bờ vực của phá sản. 
  • Xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp FDI do liên kết giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI còn yếu. Hiện nay, doanh nghiệp FDI chiếm ưu thế trong giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam, đặc biệt trong những ngành hàng thu hút FDI lớn. Điều này tạo ra thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc cạnh tranh và tăng cường xuất khẩu sản phẩm nội địa trên thị trường quốc tế.

Triển vọng tăng trưởng năm 2023 nhìn từ các dự báo quốc tế

Trong điều kiện bình thường trước COVID-19, nhìn chung, mức độ dao động trong dự báo của các tổ chức đều thấp hơn so với thực tế trong khoảng từ 0,1-0,5%. Bước sang năm 2023, dự báo của các tổ chức đã giảm và nằm ở mức trung bình 6%, thấp hơn so với dự báo năm 2022 và năm 2019 (trước khi có đại dịch), báo hiệu một năm khó khăn hơn nhiều so với 2022. Quý I/2023, GDP Việt Nam lại tăng trưởng rất thấp với mức 3,32%, do đó với kịch bản lạc quan nhất khi tăng trưởng các quý còn lại rất tốt và trong điều kiện các nền kinh tế phát triển trên thế giới dần phục hồi trở lại, thì có thể tăng trưởng thực tế của Việt Nam năm 2023 sẽ cao hơn 0,1-0,5% các dự báo đầu năm theo như độ lệch dự báo hàng năm của các tổ chức (có nghĩa, khả quan nhất là đạt mục tiêu 6,5% của Chính phủ đề ra), còn trong điều kiện vẫn còn rất khó khăn cả trong lẫn ngoài, thì sẽ thấp hơn so với mục tiêu Chính phủ từ 0,5-1%.

Dự báo tăng trưởng năm 2023 theo 3 kịch bản dựa trên ước dữ liệu GSO

Thứ nhất, kịch bản cơ sở: Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6%, CPI bình quân của năm khoảng 4%. Đây là kịch bản nhiều khả năng xảy ra nhất trong điều kiện các yếu tố bên ngoài như xung đột Nga-Ukraine, sự suy giảm kinh tế Trung Quốc, Mỹ cũng như các đối tác thương mại lớn của Việt Nam không gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế Việt Nam. Chính sách tài chính – tiền tệ được điều hành linh hoạt phù hợp, lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô ổn định.

Thứ hai, kịch bản cao: Tốc độ tăng trưởng GDP khi đó đạt 6,5%, CPI bình quân của năm khoảng 4,2%. Kịch bản này ít khả năng hơn nhưng cũng có thể xảy khi kinh tế thế giới diễn biến tích cực, sự mở cửa của kinh tế Trung Quốc là cú hích quan trọng đối với kinh tế toàn cầu. Các đối tác thương mại và đầu tư lớn của Việt Nam hồi phục kinh tế và các chính sách điều hành nhanh chóng phát huy hiệu quả.

Thứ ba, kịch bản thấp: Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2023 chỉ đạt 5,5%, CPI bình quân của năm khoảng 3,5%. Kịch bản này ít có khả năng xảy ra, nhưng nếu diễn biến xung đột địa chính trị trên thế giới trở nên phức tạp hơn thì điều này không những sẽ gây cản trở tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong các tháng còn lại của năm 2023, mà còn gây hậu quả xấu cho tăng trưởng kinh tế trong trung hạn. 

 

Đề xuất chính sách

Các định hướng chính sách vĩ mô chung

Trong bối cảnh chung của kinh tế Việt Nam như trên, việc nhìn nhận lại những động lực tăng trưởng từ bên trong, nhất là các động lực nhằm đảm bảo sự tự chủ nền kinh tế, cải thiện năng lực của Việt Nam sẽ giúp chống đỡ các cú sốc và rủi ro kinh tế toàn cầu đang đe dọa làm suy giảm tăng trưởng kinh tế, đồng thời gây những bất ổn về an sinh xã hội và trật tự an ninh quốc gia.

Trước hết, bên cạnh các chính sách phát huy thế mạnh của Việt Nam về kinh tế đối ngoại và định hướng sản xuất hướng tới thị trường xuất khẩu, Việt Nam cũng nên chú trọng khôi phục thị trường trong nước, nhất là phát triển lĩnh vực thị trường dịch vụ – một lĩnh vực có thế mạnh tiềm ẩn rất lớn đối với các doanh nghiệp nội địa, nhằm đáp ứng các nhu cầu dịch vụ đã và đang bùng nổ sau đại dịch cũng như khi Việt Nam đã chuyển đổi cấu trúc kinh tế đáp ứng một nền kinh tế của thị trường mới nổi.

Yếu tố thứ hai cần chú trọng chính là phát huy nội lực của hệ thống doanh nghiệp tư nhân trong nước. Đại dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực đến hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, thời gian hoạt động ngắn. Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh tập trung chủ yếu ở quy mô vốn từ 0-10 tỷ đồng với 49.533 doanh nghiệp (chiếm 90,1%, tăng 16,8% so với năm 2020). Ở quy mô từ 10-20 tỷ đồng có 2.976 doanh nghiệp (chiếm 5,4%, tăng 29,6% so với năm 2020); từ 20-50 tỷ đồng có 1.630 doanh nghiệp (chiếm 3,0%, tăng 34,6% so với năm 2020); từ 50-100 tỷ đồng có 509 doanh nghiệp (chiếm 0,9%, tăng 24,1% so với năm 2020) và quy mô trên 100 tỷ đồng có 312 doanh nghiệp (chiếm 0,6%, tăng 20,0% so với năm 2020).

Với hơn 97% doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ thì năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vẫn còn rất hạn chế, chỉ số năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) phản ánh năng suất và hiệu quả sản xuất của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước thấp hơn rất nhiều so với khối doanh nghiệp FDI, đồng thời tốc độ tăng TFP cũng không cao.

Bên cạnh sự thua kém về năng lực cạnh tranh, năng suất lao động thì tính liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất yếu. Tâm lý kinh doanh của phần lớn doanh nghiệp nội địa thường chỉ tập trung cho lợi ích riêng lẻ kiểu “mạnh ai nấy làm”, chỉ quan tâm đến việc tìm mối làm ăn cho riêng mình, chưa nhận thức được đầy đủ lợi ích to lớn của việc liên kết thành cộng đồng và liên minh của các doanh nghiệp và lĩnh vực. Điều này cũng làm hạn chế khả năng doanh nghiệp nội địa có thể tham gia vào các chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia.

Yếu tố thứ ba rất quan trọng là cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. Kinh nghiệm từ đại dịch COVID-19 cho thấy, chính các biện pháp đẩy mạnh tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn và rào cản không đáng có cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và người dân lại có ý nghĩa rất quan trọng để kéo lại niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào sự phục hồi và phát triển kinh tế năm 2023, góp phần thúc đẩy dòng vốn lành mạnh trở lại với hoạt động sản xuất – kinh doanh, từ đó hạn chế các nguy cơ bong bóng tài sản (đặc biệt là bất động sản như thời gian qua), góp phần khôi phục sản xuất, khôi phục thị trường, bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát, đảm bảo duy trì ổn định kinh tế vĩ mô cũng như đảm bảo an ninh và an sinh xã hội.

Do đó, bên cạnh những chính sách hỗ trợ và phục hồi nền kinh tế nói chung, để phát huy sức mạnh nội lực của hệ thống doanh nghiệp trong nước, cần tiếp tục có những cải cách đột phá về thể chế nhằm thúc đẩy hoàn thiện hơn nữa môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, tiến tới nền kinh tế thị trường đầy đủ và tự do, đồng thời cần cải cách thể chế và hoàn thiện chính sách hỗ trợ phục hồi tăng trưởng của thành phần kinh tế tư nhân trong nước, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ tại Việt Nam.

Các kiến nghị chính sách vĩ mô cụ thể 

Thứ nhất, xác định nhiệm vụ trọng tâm và hàng đầu trong thời gian tới là vừa cân bằng giữa mục tiêu duy trì “ổn định kinh tế vĩ mô”, đồng thời tìm kiếm các giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phục hồi kinh tế, phục hồi sản suất kinh doanh của doanh nghiệp một cách nhanh chóng và mạnh mẽ. Các chính sách cần được phối hợp một cách nhịp nhàng và có sự điều phối tổng hợp cũng như tham vấn của các bên liên quan, qua đó từ khâu hoạch định, thực thi đều thông suốt và không giật cục, dựa tối đa vào các giải pháp thị trường, thay vì mệnh lệnh hành chính. 

Thứ hai, cần tiếp tục triển khai hiệu quả hơn các chính sách tài khóa, đặc biệt các gói hỗ trợ phục hồi cho nền kinh tế, hướng vào các ngành có tác động tràn tích cực. Tổng kết đánh giá việc triển khai chương trình hỗ trợ nhằm rút ngắn thời gian trong khâu thực hiện, triển khai đảm bảo tính kịp thời trong hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng vượt qua những cú sốc, hạn chế thiệt hại, nâng cao hiệu quả của các chương trình hỗ trợ; chính sách hỗ trợ phải đảm bảo đơn giản, dễ thực hiện, đúng mục tiêu. Các chính sách hỗ trợ đầu cung theo ngành và doanh nghiệp cần đúng đối tượng và thiết thực hơn. Hiện nay, các hỗ trợ thường thông qua giảm mức thu các loại phí, lệ phí đang được thực hiện một cách dàn trải, ít có tác động thực, thậm chí có thể gây ra lãng phí ngân sách. Do đó, Chính phủ cần thu hẹp đối tượng thụ hưởng, hướng vào các doanh nghiệp có năng lực và khả năng lan tỏa cao, tập trung vào hai khó khăn lớn với cộng đồng doanh nghiệp hiện nay là đứt gãy chuỗi cung ứng và chi phí sản xuất gia tăng. 

Thứ ba, chính sách tiền tệ cần duy trì trạng thái “thích ứng” với hiện trạng của nền kinh tế có nhiều rủi ro, tiếp tục cân bằng giữa rủi ro tài chính với hỗ trợ phục hồi kinh tế, khơi thông sự luân chuyển của dòng vốn. Ngoài việc hạ lãi suất điều hành phù hợp bối cảnh trong và ngoài nước, việc điều tiết cung tiền và đảm bảo thanh khoản hệ thống (đã làm khá tốt) cần được phát huy tốt hơn để đảm bảo khả năng tiếp cận tín dụng, qua đó từng bước nâng dần tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM) trong các quý còn lại của năm 2023. Bên cạnh đó, cần quản lý thật tốt kỳ vọng lạm phát, chuẩn bị sẵn sàng các biện pháp dự phòng và hành động nhanh chóng, nhất quán nếu rủi ro lạm phát kỳ vọng tăng dần. Cần truyền thông rõ kịch bản, lộ trình, điều kiện hành động cho công chúng, đảm bảo không quên mục tiêu duy trì ổn định giá cả và bảo vệ uy tín chính sách của ngân hàng Trung ương (NHTW).

Thứ tư, cần có các chính sách thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, thậm chí triển khai “ngoại giao đơn hàng” như đã từng làm “ngoại giao vắc-xin”, tháo gỡ ách tắc đầu ra xuất khẩu. Cần rà soát, đánh giá các rào cản thương mại và đầu tư cũng như các yêu cầu kỹ thuật đối với hàng hóa/dịch vụ của các hiệp định tự do về thương mại và đầu tư mà Việt Nam đã ký kết, của các đối tác thương mại/đầu tư quan trọng và tiềm năng của Việt Nam (ví dụ: chiến lược thương mại và đầu tư mới của EU). Trên cơ sở đó, cần có chiến lược và chính sách cụ thể nhằm tận dụng lợi thế các hiệp định thương mại tự do (nhất là các hiệp định thương mại tự do mới) mà Việt Nam đã ký kết/tham gia như EVFTA. 

Thứ năm, chú trọng cải cách và lành mạnh hóa thị trường tài chính để thu hút nhanh chóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn. Trong bối cảnh thu hút FDI đang có dấu hiệu chững lại, điều quan trọng là rà soát các điều kiện và thủ tục để triển khai thuận lợi các dự án, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký và đang trong khâu triển khai dự án, cần hóa giải nhanh chóng các khâu thủ tục hành chính, giải tỏa cấp phép về đất đai, các quy chuẩn để thực hiện dự án nhanh chóng, kịp thời ngay trong năm 2023.

Thứ sáu, công tác dự báo và đánh giá chính sách cần làm thường xuyên, liên tục và có sự công khai, minh bạch, kịp thời hơn nữa. Các ngành, các cấp cần thường xuyên cập nhật các chính sách và đặc biệt công bố các dữ liệu để các cơ quan, tổ chức nghiên cứu, tư vấn và phản biện chính sách cũng như báo chí có thể tham gia thực hiện đóng góp và dự báo tình hình kinh tế, có những góp ý điều chỉnh kịp thời các chính sách nhằm vừa ổn định kinh tế vĩ mô, vừa đảm bảo mục tiêu phát triển và phục hồi tăng trưởng bền vững trong năm 2023.

Các giải pháp cụ thể cho doanh nghiệp phục hồi

Các giải pháp ngắn hạn 

(1) Tạo thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin chính sách, quy định hỗ trợ doanh nghiệp: Việc tiếp cận thông tin chính sách, quy định là rất quan trọng đối với cộng đồng kinh doanh. Các cơ quan nhà nước cần công khai rộng rãi các chính sách, quy định để các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ, nhỏ) thuận lợi trong tiếp cận thông tin. Các hướng dẫn thực hiện cần rõ ràng hơn với những tiêu chí đánh giá cụ thể giúp đánh giá mức độ hoàn thành của mục tiêu đề ra và kết quả thực hiện. Trong quá trình này, các cơ quan chức năng cũng cần vận hành hiệu quả đường dây nóng và hòm thư điện tử để tiếp nhận các phản ánh, kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp, người dân nhằm điều chỉnh kịp thời các quy định, chính sách.

(2) Quan tâm giải quyết các khó khăn tài chính cho doanh nghiệp: Tiếp tục có giải pháp hỗ trợ giãn nộp cho các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch COVID-19 mà không có khả năng nộp. Các cơ quan chức năng cũng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách miễn, giãn nộp ngân sách nhà nước với thời gian đủ dài để doanh nghiệp phục hồi, cụ thể là với các khoản chi phí liên quan trực tiếp tới dòng tiền của doanh nghiệp như: tiền thuê đất, các loại phí, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… Cần tiến hành kéo dài chính sách giảm 2% thuế giá trị gia tăng trong năm 2023, bổ sung thêm chính sách hỗ trợ trong trả lương cho người lao động, chính sách hỗ trợ về bảo hiểm xã hội như giảm mức đóng, thay vì chính sách không tính lãi cho doanh nghiệp như hiện nay.

(3) Tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tiếp cận vốn để phục hồi sản xuất – kinh doanh: Việc cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã được giãn nợ, cơ cấu thời hạn trả nợ, miễn giảm phí, không phạt trả chậm tín dụng, giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 để có thêm thời gian phục hồi trả nợ và khắc phục nợ xấu là rất cần thiết. Cần sửa đổi điều kiện cho vay hợp lý hơn để triển khai gói vay hỗ trợ lãi suất 2% hiệu quả hơn. 

(4) Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thúc đẩy mạnh mẽ giải quyết thủ tục hành chính triệt để trên môi trường mạng. Chấp thuận các hồ sơ, văn bản scan, các hình thức gửi online trong việc giải quyết các thủ tục hành chính. Đẩy nhanh triển khai dịch vụ công cấp độ 4, ứng dụng chuyển đổi số trong cải cách hành chính để thay thế cho các hình thức nộp hồ sơ giấy trước đây.

(5) Nâng cao hiệu quả thực thi của bộ máy chính quyền: Có giải pháp kiểm tra quá trình triển khai thực hiện, quan tâm nâng cao hiệu quả thực thi của các Bộ, ngành và chính quyền các địa phương. Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và chính quyền địa phương thường xuyên nắm bắt phản ánh, kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân về các chính sách trong quá trình thực hiện để kịp thời xử lý bất cập trong các chính sách, quy định. 

Các giải pháp trung và dài hạn 

Về trung và dài hạn, bên cạnh việc song song thực hiện các chính sách hỗ trợ về thuế, phí, tín dụng, các chính sách mang tính tái cấu trúc, hướng tới phát triển bền vững cũng cần được xây dựng ngay từ bây giờ. Cụ thể:

(1) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Đề nghị xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo công nhân kỹ thuật chuyên sâu, bài bản trong những ngành công nghiệp kỹ thuật phụ trợ cần thiết nhất hiện nay. Việt Nam cần phải có các chương trình đào tạo kỹ năng cụ thể, cho từng ngành nghề, lĩnh vực công nghiệp kỹ thuật phụ trợ cụ thể thuộc các chuỗi giá trị trọng điểm, nằm trong chiến lược cụ thể thu hút các chuỗi FDI chuyển dịch. Cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dựa trên các đánh giá khoa học và dự báo được về những thay đổi của thị trường lao động việc làm trong 5-10 năm tới. 

(2) Nâng cao khả năng tận dụng ưu đãi thuế quan FTA, khơi thông các chính sách liên quan đến quy tắc xuất xứ. Việt Nam hiện có 15 FTA đang có hiệu lực, trong đó có nhiều thị trường mà Việt Nam hiện có lợi thế do các đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam chưa có FTA (ví dụ EU, Liên minh Kinh tế Á-Âu, Chile, Canada… chưa có FTA với phần lớn các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trong ASEAN, Trung Quốc). Do đó, lợi thế thuế quan theo các FTA là công cụ quan trọng để hấp dẫn các khách hàng quay trở lại đặt hàng với doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới. Vì vậy, Chính phủ cần có chương trình hành động cụ thể nhằm nâng cao khả năng tận dụng ưu đãi thuế quan FTA để xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và xử lý các vướng mắc về chính sách liên quan tới quy tắc xuất xứ trong các FTA 

(3) Cải thiện hạ tầng logistics cũng như thủ tục hành chính có liên quan để tạo thuận lợi cho các hoạt động vận tải và xuất nhập khẩu, đặc biệt đối với nông thủy sản để tăng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. 

(4) Tiếp tục rà soát, điều chỉnh chính sách ưu đãi đầu tư để thu hút làn sóng đầu tư chất lượng cao và đầu tư vào công nghiệp phụ trợ; nghiên cứu tận dụng làn sóng dịch chuyển với cổ phần hóa, đầu tư theo hình thức mua bán và sáp nhập (M&A). Có chiến lược cải cách môi trường kinh doanh và đầu tư mạnh mẽ hơn để giữ vững được dòng vốn đầu tư nước ngoài, thích ứng với sự thay đổi lớn của nhiều chính sách đầu tư toàn cầu mới như thuế tối thiểu toàn cầu. 

(5) Xác định phát triển kinh tế số là động lực tăng trưởng của nền kinh tế, tạo cơ chế thúc đẩy thương mại điện tử (sàn giao dịch điện tử, vận tải công nghệ, chợ đầu mối trực tuyến…); hỗ trợ hoạt động đổi mới sáng tạo; hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số (đào tạo nâng cao năng lực tiếp cận công nghệ, tư vấn/định hướng ứng dụng công nghệ/số hóa quy trình quản trị doanh nghiệp…), tăng cường triển khai các chương trình đào tạo ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, marketing số…

(6) Thúc đẩy phát triển thị trường nội địa, thị trường nội ngành thông qua việc tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và phong trào “Hàng Việt Nam chinh phục người Việt”, đồng thời đẩy mạnh liên kết giữa các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc phối hợp tiêu thụ sản phẩm của nhau để đa dạng hóa nguồn nguyên liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ đầu ra, giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường quốc tế. Cần có các chương trình kết nối tiêu thụ và kích thích tiêu dùng trên toàn quốc (ví dụ: có thể tổ chức các hội chợ bán hàng online theo từng sản phẩm theo tuần; liên kết một số sàn thương mại điện tử để cùng thực hiện hoạt động này). Cần có sự liên kết giữa các Bộ, địa phương, hiệp hội để xây dựng các tuần lễ kết nối, tiêu thụ sản phẩm theo ngành hoặc đa ngành, kết hợp online và tập trung.

(7) Tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, với trọng tâm là cải cách về thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp. Tập trung cải cách một số lĩnh vực thủ tục hành chính (TTHC) còn nhiều phiền hà theo phản ánh từ các doanh nghiệp, đó là các lĩnh vực TTHC về đất đai, thuế, bảo hiểm xã hội, xây dựng, quản lý thị trường, giao thông, phòng cháy, môi trường, kho bạc và lao động. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành tập trung rà soát và tối ưu hóa quy trình thủ tục hành chính liên ngành, đặc biệt là các thủ tục liên quan tới đầu tư, xây dựng, đất đai, môi trường. Triển khai thực chất việc xây dựng chính quyền điện tử, trong đó cần ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính, tăng số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4. Hướng tới việc tạo lập và kết nối liên thông giữa các cơ quan quản lý nhà nước về cơ sở dữ liệu doanh nghiệp để đảm bảo công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thực hiện một cách thống nhất, đồng bộ. Tiếp tục giảm thiểu gánh nặng thanh, kiểm tra doanh nghiệp, theo hướng áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong thực hiện thanh tra kiểm tra. Cải cách mạnh mẽ hơn về kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. 

>> THÔNG TIN VỀ BÁO CÁO

Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam là chuỗi các báo cáo được xuất bản hàng năm nhằm tổng kết các vấn đề kinh tế lớn trong năm, đồng thời thảo luận về viễn cảnh kinh tế năm tới và đề xuất các chính sách liên quan. Đây là sản phẩm của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), thuộc Trường ĐH Kinh tế, ĐHQGHN được liên tục công bố trong 15 năm qua, nằm trong chương trình nghiên cứu chiến lược của ĐHQGHN về “Lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập kinh tế của Việt Nam”.

Hội thảo công bố Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2023 do Trường ĐH Kinh tế, ĐHQGHN phối hợp với Viện Friedrich Nauman Foundation Việt Nam (FNF) tổ chức sáng 22/6/2023. Báo cáo bao gồm 6 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan kinh tế thế giới năm 2022 và nửa đầu năm 2023

Chương 2: Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2022 và nửa đầu năm 2023

Chương 3: Kết quả thực hiện các chính sách nhằm phục hồi nhanh và bền vững nền kinh tế hậu Covid-19

Chương 4: Nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát triển doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Chương 5: Thương mại Việt Nam: Hướng tới tăng cường khả năng hỗ trợ phục hồi và giảm sốc cho nền kinh tế

Chương 6: Triển vọng Kinh tế Việt Nam 2023 và đề xuất giải pháp phục hồi phát triển doanh nghiệp


Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN