About us

 BAN GIÁM HIỆU

 CÁC CÂU HỎI THƯỜNG GẶP (FAQ)

 CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO NGẮN HẠN

 Cựu sinh viên

 danh muc dang bo

 Danh muc KTKT En

 danh muc van ban

 ĐÀO TẠO CHÍNH QUY

 ĐÀO TẠO NGẮN HẠN

 General Introduction

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu chung

 GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU

 HỌC VIÊN - NGHIÊN CỨU SINH

 Home

 HOME

 Introduction

 Introduction

 LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP

 menu94

 News

 QTKD danh mục

 SẢN PHẨM NGHIÊN CỨU

 SINH VIÊN

 SỰ KIỆN

 TÀI NGUYÊN HỌC TẬP

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo chung

 THÔNG TIN CHUNG

 Thông tin VNU

 Tin tức

 Tin tức

 Tin tức hoạt động

 Tin tức hoạt động

 Tin tức hoạt động

 Trang chủ

 ueb2019

 WELCOME

 Xuất bản phẩm

 ♔ Đào tạo và tuyển sinh

 About GPAC

 About us

 Articles published in international journals

 Các khoa

 Chuỗi báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam

 Chương trình ĐT thạc sĩ

 Dành cho cán bộ

 Danh mục

 Đào tạo

 ĐƠN VỊ ĐÀO TẠO

 Editorial Board

 General Introduction

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu chung

 Giới thiệu chung

 Giới thiệu hoạt động HTPT

 Hoạt động chuyên môn

 Hội đồng Biên tập

 INTRODUCTION

 Introduction

 Letter from Editor-in-Chief

 Lịch sử phát triển

 Lịch sử phát triển

 Lịch sử phát triển

 News

 News

 News

 PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG UEB

 Program Criteria

 RANKINGS

 TÀI NGUYÊN NGHIÊN CỨU

 THÔNG BÁO

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo

 THÔNG TIN TUYỂN SINH

 Thư ngỏ

 Tin hoạt động

 Tin tức - Hoạt động

 Tuyển sinh đại học

 Undergraduate

 Upcoming

 Vài nét về Trường ĐHKT

 Văn bản Trường ĐHKT

 Về hoạt động nghiên cứu

 ♕ Nghiên cứu khoa học

 About PPDS

 Các câu lạc bộ sinh viên

 Các trung tâm

 Chương trình đào tạo

 Chương trình đào tạo

 CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO

 Chương trình ĐT tiến sĩ

 Cơ cấu tổ chức

 ĐĂNG KÍ THÀNH VIÊN

 Dành cho sinh viên

 Đề tài cấp Nhà nước

 ĐHKT - những chặng đường

 ĐƠN VỊ CHỨC NĂNG

 Events

 Giới thiệu

 Giới thiệu chung

 Giới thiệu chung

 Giới thiệu về Viện

 Hội đồng biên tập

 Hội thảo

 Important Dates

 Kế hoạch đào tạo

 LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN

 Lịch trình đào tạo

 Lý do chọn ĐHKT

 Message of the Rector

 News

 News

 News

 Nghiên cứu

 NHÀ NGHIÊN CỨU

 Nhận diện thương hiệu

 Notices

 Postgraduate

 Research Product

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo

 Thông điệp của hiệu trưởng

 Tin tức

 TIN TỨC CHUNG

 Tin tức hoạt động

 Tin tức và sự kiện

 Trainings

 Tuyển sinh sau đại học

 Tuyển sinh sau đại học CLC

 Văn bản ĐHQGHN

 ♖ Hợp tác phát triển

 Academic exchange

 Academic programs

 Admission

 Archives

 Các ngành đào tạo của ĐHKT

 CẨM NANG ĐẠI HỌC

 Categories & Prizes

 Chương trình đào tạo

 Cơ cấu tổ chức

 Cooperation

 Đào tạo

 Đào tạo

 Đào tạo ngắn hạn

 Đề tài cấp Đại học Quốc gia

 Đối tác trong nước

 Đối tác và bảo trợ

 ĐƠN VỊ NGHIÊN CỨU VÀ DỊCH VỤ

 General Introduction

 Giáo dục - Đào tạo

 Giới thiệu

 Hỗ trợ sinh viên

 Hợp tác

 Information for

 Instructions to Authors

 Kế hoạch chiến lược

 Kế hoạch hoạt động

 Kế hoạch nhiệm vụ

 KEYNOTE SPEAKERS

 Lãnh đạo Trường ĐHKT

 Nghiên cứu - trao đổi

 Nội quy

 Organizer

 PAST-CONFERENCES

 Research

 Research

 Research project

 Sinh viên cần biết

 Số đã xuất bản

 Sự kiện trong năm

 SỨ MỆNH TẦM NHÌN

 Thể lệ gửi bài

 Thời khóa biểu

 Thông báo

 THÔNG BÁO

 TIN TỨC

 Trainings

 Tư vấn chính sách

 Tuyển sinh đại học CLC

 Về thầy cô

 Xuất bản phẩm

 ♙ Bản tin

 ACCEPTED PAPERS

 Announcement

 Announcements

 Ba công khai

 Books

 Các tổ chức đoàn thể

 Cultural exchange

 Đăng ký lớp học phần

 Đào tạo

 Đào tạo

 Đối tác nước ngoài

 Editorial Board

 FIBE & Me

 Giải thưởng

 Giảng viên

 Guide for Authors

 Học bổng

 Học bổng - Học phí

 Hướng dẫn tác giả

 Judges

 Khóa học kỹ năng

 Library

 Lịch thi

 News and Events

 Nghiên cứu

 Nghiên cứu

 Nghiên cứu khoa học

 Nghiên cứu khoa học

 Partnership

 Research

 Sinh viên

 SỰ KIỆN

 Sứ mệnh - Giá trị cốt lõi

 Thông báo

 Thông tin tham khảo

 Tin tức

 Trainings

 TRAO ĐỔI GIẢNG VIÊN

 TRIẾT LÝ GIÁO DỤC

 Về chúng tôi

 ♗ FIBE & Tôi

 Biểu mẫu

 Bulletin

 Chân dung nhà giáo

 Chia sẻ

 Đảm bảo chất lượng

 Dịch vụ

 Đối tác

 Đối tác của Trường ĐHKT

 Học phí

 Hợp tác

 Hợp tác

 Hợp tác

 Khẩu hiệu hành động

 Lịch công tác

 Lịch thi học kỳ

 Lịch trình đào tạo

 Môi trường học tập

 More Information

 Nghiên cứu khoa học

 Nghiên cứu và Ấn phẩm

 Nhóm nghiên cứu mạnh

 Phiếu nhập điểm

 Research

 Resources

 Sinh viên

 Sinh viên

 Students and Alumni

 Thời khóa biểu

 Thông báo

 Thông báo

 THÔNG ĐIỆP LÃNH ĐẠO

 Tin tức

 TUYỂN DỤNG

 Tuyển sinh chương trình ĐT thứ hai bằng kép

 Văn bản hướng dẫn

 ♘ Giới thiệu

 CƠ CẤU TỔ CHỨC

 Contact

 Contact

 Contact us

 Đào tạo

 Development Cooperation

 Get Involved

 Gương mặt sinh viên

 Học và thi

 Học viên

 Hỏi - đáp

 Hợp tác phát triển

 Hợp tác phát triển

 Ký túc xá

 Lịch công tác

 Luận văn

 Presenter

 Sản phẩm KHCN tiêu biểu

 Thông báo

 Tin tức

 Tổ chức - nhân sự

 Triết lý giáo dục

 Tuyển sinh chương trình liên kết quốc tế

 Ý kiến bạn đọc

 Bài báo quốc tế

 Hoạt động Đảng - Đoàn thể

 Kế hoạch chiến lược

 Library

 Liên hệ

 Liên hệ

 Nghiên cứu - tư vấn

 Nghiên cứu khoa học

 Nhân vật - Sự kiện

 Phiếu nhập điểm

 Publication

 Students and Alumni

 Sydney Genesis

 Tài liệu văn bản - Hướng dẫn

 Thông báo

 Thông tin luận án

 THƯƠNG HIỆU

 Tư vấn và Đào tạo cao cấp

 Tuyển sinh

 Bài báo trong nước

 Biểu mẫu

 Chỉ dẫn đường đi

 Cơ sở dữ liệu Đảm bảo Chất lượng

 Công bố quốc tế của NCS

 Đảm bảo chất lượng

 Đào tạo ngắn hạn

 ĐBCL GIÁO DỤC

 Direction

 EDNA Genesis

 Hoạt động của sinh viên

 Học vụ

 Hợp tác phát triển

 Lịch Lãnh đạo khoa

 Niên luận - khóa luận

 Sinh viên tình nguyện

 Thông báo

 Tin tức hoạt động

 Tốt nghiệp

 Trao đổi

 Các nhà tài trợ

 Chuyên đề

 Cơ sở vật chất

 Cuộc sống sinh viên

 Đảm bảo chất lượng

 Đào tạo

 FAQs

 Liên hệ

 Liên hệ

 Liên hệ

 Liên hệ

 NCKH sinh viên

 Sinh viên nước ngoài

 Thông báo

 THÔNG TIN VNU

 Trọng số môn học

 Văn bản - Hướng dẫn

 Bài phát biểu của Hiệu trưởng

 BÁO CHÍ NÓI VỀ UEB

 Chỉ đường

 Đào tạo

 ĐHKT qua báo chí

 Download tài liệu NCKH

 Đường đến trường

 Hệ thống công nghệ thông tin

 News

 Sách đã xuất bản

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo

 Tin tức

 Văn bằng

 About us

 Hệ thống website ĐHKT

 Kỷ yếu

 Liên hệ

 Trao đổi

 Tuyển dụng

 Văn bằng

 Việc làm cho sinh viên

 Bản tin Kinh tế Phát triển

 Biểu mẫu công tác SV

 Liên hệ

 Văn bản hướng dẫn

 Hỏi - đáp

 Khen thưởng - Kỷ luật

 Nghiên cứu khoa học

 Sắp diễn ra

 Sổ tay cán bộ Đoàn - Hội

 Academics

 In ấn - Xuất bản

 Liên hệ

 Thông báo

 Cooperation

 Đề tài đang thực hiện

 Research

 Cuộc thi khởi nghiệp

 Đề tài đã thực hiện

 Biểu mẫu về NCKH

 Hợp tác phát triển

 Video

 Văn bản hướng dẫn

 Campus

 Câu hỏi thường gặp

 Liên hệ

 Nghiên cứu

 Danh bạ web

 Sinh viên

 Liên hệ

 Góc chuyên môn

 Chương trình trao đổi quốc tế

 Chương trình trao đổi trong nước

 Hợp tác phát triển

 Văn bản - Biểu mẫu

 Cẩm nang sinh viên năm học 2021 - 2022

 Quy định về công tác SV

 Thư viện dùng chung khối ngành Kinh tế

 Hỏi - đáp về công tác SV

 test

 Giảng viên ĐHKT

 Học giả quốc tế

 Liên hệ

 Chỉ dẫn & bản đồ

Có bằng đại học để làm gì?

Ảnh chỉ có tính minh họa
Chuyện về những cử nhân chấp nhận làm xe ôm công nghệ, người giao hàng, hay thậm chí về quê… chăn lợn, cùng chuyện về những người không bằng cấp kiếm tiền tỷ nhờ tài kinh doanh hay óc sáng tạo xuất hiện thường xuyên trên báo chí dễ gây ấn tượng rằng có bằng đại học cũng chẳng để làm gì.


Trong khi trên thực tế, bằng đại học đang bảo đảm thu nhập tốt hơn cho người lao động.

Đó là một trong những kết luận được rút ra từ nghiên cứu ước tính mức sinh lợi của việc học đại học đối với cá nhân ở Việt Nam do TS Trần Quang Tuyến (Trường ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội) và các cộng sự thực hiện. Trước đó, TS Tuyến và các cộng sự từng nghiên cứu đo lường tác động của giáo dục nói chung tới tiền lương hoặc thu nhập hộ.

Có học có hơn

Ở nghiên cứu mới trong khuôn khổ đề tài do Bộ Giáo dục và Đào tạo đặt hàng Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán (VIASM), TS Tuyến dành mối quan tâm đến mức sinh lợi của giáo dục đại học tính theo 10 nhóm ngành, bao gồm: Đào tạo giáo viên; Nhân văn và Nghệ thuật; KHXH; KHTN; Công nghệ và Kỹ thuật; Nông nghiệp và Thú y; Y dược; Dịch vụ các ngành; An ninh quốc phòng; Các lĩnh vực khác. Các nhóm ngành này được phân chia dựa trên danh mục giáo dục-đào tạo Việt Nam, phân loại ngành của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, và phân loại ngành học của ILO.

Nhóm nghiên cứu của TS Tuyến sử dụng phân tích hồi quy đa biến để so sánh mức lương giữa các lao động cùng giới tính, cùng tuổi nghề, ở những tỉnh và vùng miền có mức sống tương đương thuộc các nhóm khác nhau.

Kết quả, nhóm ngành An ninh quốc phòng có mức sinh lợi cao nhất, trong so sánh với nhóm ngành Đào tạo giáo viên. Cụ thể, lao động ở nhóm ngành này có mức lương trung bình theo giờ cao hơn 16% so với lao động ở nhóm đối sánh. Các nhóm ngành khác cũng đều có mức sinh lợi cao hơn nhóm ngành Đào tạo giáo viên từ 1% đến 10%; trừ nhóm ngành Nông nghiệp có mức sinh lợi kém nhất, thấp hơn 12%.

Bên cạnh đó, nghiên cứu còn đo lường sự khác biệt về thu nhập giữa các nhóm lao động có bằng đại học và sau đại học với nhóm lao động chưa học tiểu học và nhóm lao động có học vấn thấp hơn cao đẳng. Theo đó, nhóm lao động có bằng đại học có mức lương trung bình theo giờ cao hơn lao động thuộc các nhóm đối sánh lần lượt là 77% và 57%; trong khi nhóm có bằng sau đại học cao hơn 96% và 75%.

Như vậy, nhìn chung, giáo dục luôn có đóng góp dương vào thu nhập của các cá nhân. Điều này càng được khẳng định chắc chắn qua việc xem xét mức lương tháng trung bình của các nhóm lao động sở hữu các loại bằng cấp khác nhau. Nghiên cứu chỉ ra, ở bất kỳ nhóm cùng phân vị nào (chẳng hạn như nhóm 20% lao động có mức lương tháng thấp nhất hay nhóm 20% lao động có mức lương tháng cao nhất) thì người sở hữu bằng cấp cao hơn sẽ có mức lương tháng cao hơn.

Trong nghiên cứu của mình, TS Tuyến sử dụng dữ liệu điều tra lao động việc làm (LFS) quý 1/2018 do Tổng cục Thống kê công bố, với mẫu gồm 200 nghìn lao động đại diện cho các vùng và tỉnh/thành phố trên khắp cả nước. Theo TS Tuyến, anh tính được mức sinh lợi của giáo dục đại học cho từng nhóm ngành là bởi năm nay, lần đầu tiên dữ liệu LFS đã bổ sung nội dung về ngành học.

Đầu tư hợp lý để bảo đảm chất lượng tấm bằng

Một khía cạnh kinh tế khác cũng được nghiên cứu trong đề tài do Bộ Giáo dục và Đào tạo đặt hàng VIASM là chi phí đơn vị cho giáo dục Việt Nam, hay chi phí để đào tạo ra một sinh viên ở Việt Nam là bao nhiêu thì bảo đảm chất lượng.

Sử dụng dữ liệu về GDP đầu người, chi phí đầu tư trên đầu sinh viên của nhà nước, học phí trung bình ở các trường công ở 30 nước trên thế giới, TS Phạm Hiệp, ĐH Thành Tây, và các cộng sự tính ra con số chi phí hợp lý ở Việt Nam trong năm 2013 là 56 triệu đồng/sinh viên/năm (hay 1.900 USD, tương đương 138% GDP đầu người) và năm 2018 là 61 triệu đồng/sinh viên/năm (hay 2.760 USD, tương đương 118% GDP đầu người).

Theo TS Hiệp, con số này khá tương đồng với nghiên cứu trước đó của GS Phạm Phụ, tác giả người Việt đầu tiên nhắc đến phương pháp đối sánh với GDP đầu người để tính toán chi phí đơn vị cho giáo dục đại học. Trong một nghiên cứu vào năm 2010, GS Phạm Phụ đã dẫn con số do WB ước tính tại thời điểm năm 2009, chi phí đơn vị hợp lý ở Việt Nam là 1.200 USD/sinh viên /năm (tương đương 120% GDP đầu người). Báo cáo mới đây do PGS Thái Bá Cần, Đại học Quốc tế Hồng Bàng, trình bày tại Hội nghị Giáo dục đại học do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng tổ chức cũng ước tính con số này nên vào khoảng từ 75-150% GDP đầu người.

Bằng cấp càng cao cho thu nhập càng cao. Nguồn: Nghiên cứu (chưa công bố) “Ước tính mức sinh lợi cá nhân của việc đi học đại học của sinh viên Việt Nam” của TS Trần Quang Tuyến và các cộng sự.

So với ước tính chi phí đơn vị mà nghiên cứu của TS Hiệp và các cộng sự nêu ra, chi phí thực tế đào tạo sinh viên ở Việt Nam hiện nay đang thấp hơn rất nhiều, trung bình vào khoảng hơn 10 triệu đồng/sinh viên/năm, tương đương 25% GDP đầu người (con số của năm 2013). TS Hiệp cho biết, khảo sát của nhóm nghiên cứu cho thấy chỉ có một số chương trình tại các đại học tư như ĐH FPT, ĐH Hoa Sen…, các đại học quốc tế như ĐH RMIT Việt Nam hoặc chương trình tiên tiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo mới có mức chi phí đơn vị tương đương hoặc hơn so với mức hợp lý mà nhóm ước tính.

Đường xa đến hàm ý chính sách

Sáng 20/8, dưới sự chủ trì của GS Ngô Bảo Châu, VIASM đã tổ chức hội thảo giữa kỳ như một cuộc lấy ý kiến phản biện mở cho hai nội dung nghiên cứu nói trên của đề tài “Sử dụng mô hình toán nghiên cứu, đánh giá một số khía cạnh tài chính trong giáo dục đại học và đề xuất chính sách”.

Về nghiên cứu của TS Trần Quang Tuyến, nhiều người tham dự, trong đó có các nhà quản lý và nhà nghiên cứu giáo dục, cho rằng, không chỉ có bằng cấp, mà còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến mức lương của người lao động như xuất thân, địa vị của cha mẹ hay các kỹ năng mềm.

TS Tuyến thừa nhận, đó là “những biến cực hay nhưng cực khó đo lường”; tuy nhiên, anh cho biết , theo một nghiên cứu do anh và các cộng sự tiến hành, lao động trẻ có bố mẹ làm quản lý sẽ có cơ hội làm quản lý hoặc ít nhất là nhân viên văn phòng cao hơn hàng chục lần so với lao động trẻ có bố mẹ làm công việc chân tay như nông dân hoặc ngư dân. “Nhóm sẽ đề cập tới các biến số này trong các nghiên cứu tiếp theo khi có đầy đủ dữ liệu. Ngoài ra, nhóm sẽ nghiên cứu yếu tố làm trái ngành nghề được đào tạo ảnh hưởng ra sao tới thu nhập của lao động,” TS Tuyến nói.

Trong khi đó, TS Phạm Hiệp tự nhận thấy, với nghiên cứu của mình và các cộng sự, không khó để có một bài báo khoa học, nhưng để có giá trị tham khảo về mặt chính sách thì chưa đủ bởi nghiên cứu chưa tính được mức chi phí đơn vị cho từng nhóm ngành khác nhau, cũng chưa tính được trong đó nhà nước tài trợ bao nhiêu và người dân chi trả bao nhiêu là hợp lý.

Để làm được như vậy, phải xác định lợi ích cá nhân (như TS Tuyến đã tính toán) và lợi ích xã hội trong từng nhóm ngành cụ thể ra sao. Mức sinh lợi cho cá nhân thấp mà mức sinh lợi cho xã hội cao thì phần nhà nước tài trợ phải nhiều và ngược lại. Tất nhiên, cũng cần tính đến khả năng chi trả của người dân như GS Ngô Bảo Châu nhấn mạnh ở phần thảo luận. Theo TS Hiệp, đây là hướng nghiên cứu khá bế tắc vì anh và các cộng sự đã theo đuổi nhiều năm nhưng chưa tìm được nguồn dữ liệu. Có thể, nhóm sẽ chọn giải pháp khả thi hơn là đối sánh với một số nước cụ thể như Úc, Mỹ…, những nơi có dữ liệu dồi dào, TS Hiệp cho biết.

Dù các nghiên cứu còn chưa hoàn tất nhưng đã cung cấp thêm những bằng chứng thuyết phục để khẳng định, giáo dục cần được nhà nước và các gia đình tiếp tục đầu tư ở mức hợp lý như một cách bảo đảm sinh kế cho mỗi cá nhân và sự phát triển bền vững của đất nước.

Theo các con số mới nhất của Tổng cục Thống kê, chỉ có 12,11% lao động Việt Nam có bằng đại học và 0,77% lao động có bằng sau đại học.

Mức lương trung bình (đã bao gồm phụ cấp nghề và làm thêm giờ) của người lao động Việt Nam hiện nay vào khoảng 4,6 triệu/tháng; trong khi thu nhập trung bình của những người có bằng đại học vào khoảng 7,9 triệu/tháng.

 

Theo nghiên cứu của TS Trần Quang Tuyến, mỗi năm đi học nói chung giúp người lao động Việt Nam tăng thêm tiền lương khoảng 6%, thấp hơn mức trung bình 10% của thế giới, và cũng thấp hơn mức trung bình 8,9% của nhóm các nước thu nhập trung bình thấp.

Bên cạnh đó, mức sinh lợi cho cá nhân của giáo dục đang có xu hướng giảm kể từ năm 2008, sau giai đoạn tăng trưởng mạnh từ thập niên 1990 nhờ ảnh hưởng của quá trình mở cửa và cải cách kinh tế. Nguyên nhân có thể do giáo dục, đặc biệt là giáo dục chuyên nghiệp, gia tăng bùng nổ trong khi khả năng hấp thụ của thị trường lao động còn hạn chế; hoặc do chất lượng lao động chưa cao, xuất phát từ chỗ đầu tư cho giáo dục chưa tới, như nghiên cứu của TS Phạm Hiệp bước đầu chỉ ra.

>> Xem bài gốc


Thái Thanh thực hiện