About us

 BAN GIÁM HIỆU

 CÁC CÂU HỎI THƯỜNG GẶP (FAQ)

 CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO NGẮN HẠN

 Cựu sinh viên

 danh muc dang bo

 Danh muc KTKT En

 danh muc van ban

 ĐÀO TẠO CHÍNH QUY

 ĐÀO TẠO NGẮN HẠN

 General Introduction

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu chung

 GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU

 HỌC VIÊN - NGHIÊN CỨU SINH

 Home

 HOME

 Introduction

 Introduction

 LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP

 menu94

 News

 QTKD danh mục

 SẢN PHẨM NGHIÊN CỨU

 SINH VIÊN

 SỰ KIỆN

 TÀI NGUYÊN HỌC TẬP

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo chung

 THÔNG TIN CHUNG

 Thông tin VNU

 Tin tức

 Tin tức

 Tin tức hoạt động

 Tin tức hoạt động

 Tin tức hoạt động

 Trang chủ

 ueb2019

 WELCOME

 Xuất bản phẩm

 ♔ Đào tạo và tuyển sinh

 About GPAC

 About us

 Articles published in international journals

 Các khoa

 Chuỗi báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam

 Chương trình ĐT thạc sĩ

 Dành cho cán bộ

 Danh mục

 Đào tạo

 ĐƠN VỊ ĐÀO TẠO

 Editorial Board

 General Introduction

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu

 Giới thiệu chung

 Giới thiệu chung

 Giới thiệu hoạt động HTPT

 Hoạt động chuyên môn

 Hội đồng Biên tập

 INTRODUCTION

 Introduction

 Letter from Editor-in-Chief

 Lịch sử phát triển

 Lịch sử phát triển

 Lịch sử phát triển

 News

 News

 News

 PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG UEB

 Program Criteria

 RANKINGS

 TÀI NGUYÊN NGHIÊN CỨU

 THÔNG BÁO

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo

 THÔNG TIN TUYỂN SINH

 Thư ngỏ

 Tin hoạt động

 Tin tức - Hoạt động

 Tuyển sinh đại học

 Undergraduate

 Upcoming

 Vài nét về Trường ĐHKT

 Văn bản Trường ĐHKT

 Về hoạt động nghiên cứu

 ♕ Nghiên cứu khoa học

 About PPDS

 Các câu lạc bộ sinh viên

 Các trung tâm

 Chương trình đào tạo

 Chương trình đào tạo

 CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO

 Chương trình ĐT tiến sĩ

 Cơ cấu tổ chức

 ĐĂNG KÍ THÀNH VIÊN

 Dành cho sinh viên

 Đề tài cấp Nhà nước

 ĐHKT - những chặng đường

 ĐƠN VỊ CHỨC NĂNG

 Events

 Giới thiệu

 Giới thiệu chung

 Giới thiệu chung

 Giới thiệu về Viện

 Hội đồng biên tập

 Hội thảo

 Important Dates

 Kế hoạch đào tạo

 LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN

 Lịch trình đào tạo

 Lý do chọn ĐHKT

 Message of the Rector

 News

 News

 News

 Nghiên cứu

 NHÀ NGHIÊN CỨU

 Nhận diện thương hiệu

 Notices

 Postgraduate

 Research Product

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo

 Thông điệp của hiệu trưởng

 Tin tức

 TIN TỨC CHUNG

 Tin tức hoạt động

 Tin tức và sự kiện

 Trainings

 Tuyển sinh sau đại học

 Tuyển sinh sau đại học CLC

 Văn bản ĐHQGHN

 ♖ Hợp tác phát triển

 Academic exchange

 Academic programs

 Admission

 Archives

 Các ngành đào tạo của ĐHKT

 CẨM NANG ĐẠI HỌC

 Categories & Prizes

 Chương trình đào tạo

 Cơ cấu tổ chức

 Cooperation

 Đào tạo

 Đào tạo

 Đào tạo ngắn hạn

 Đề tài cấp Đại học Quốc gia

 Đối tác trong nước

 Đối tác và bảo trợ

 ĐƠN VỊ NGHIÊN CỨU VÀ DỊCH VỤ

 General Introduction

 Giáo dục - Đào tạo

 Giới thiệu

 Hỗ trợ sinh viên

 Hợp tác

 Information for

 Instructions to Authors

 Kế hoạch chiến lược

 Kế hoạch hoạt động

 Kế hoạch nhiệm vụ

 KEYNOTE SPEAKERS

 Lãnh đạo Trường ĐHKT

 Nghiên cứu - trao đổi

 Nội quy

 Organizer

 PAST-CONFERENCES

 Research

 Research

 Research project

 Sinh viên cần biết

 Số đã xuất bản

 Sự kiện trong năm

 SỨ MỆNH TẦM NHÌN

 Thể lệ gửi bài

 Thời khóa biểu

 Thông báo

 THÔNG BÁO

 TIN TỨC

 Trainings

 Tư vấn chính sách

 Tuyển sinh đại học CLC

 Về thầy cô

 Xuất bản phẩm

 ♙ Bản tin

 ACCEPTED PAPERS

 Announcement

 Announcements

 Ba công khai

 Books

 Các tổ chức đoàn thể

 Cultural exchange

 Đăng ký lớp học phần

 Đào tạo

 Đào tạo

 Đối tác nước ngoài

 Editorial Board

 FIBE & Me

 Giải thưởng

 Giảng viên

 Guide for Authors

 Học bổng

 Học bổng - Học phí

 Hướng dẫn tác giả

 Judges

 Khóa học kỹ năng

 Library

 Lịch thi

 News and Events

 Nghiên cứu

 Nghiên cứu

 Nghiên cứu khoa học

 Nghiên cứu khoa học

 Partnership

 Research

 Sinh viên

 SỰ KIỆN

 Sứ mệnh - Giá trị cốt lõi

 Thông báo

 Thông tin tham khảo

 Tin tức

 Trainings

 TRAO ĐỔI GIẢNG VIÊN

 TRIẾT LÝ GIÁO DỤC

 Về chúng tôi

 ♗ FIBE & Tôi

 Biểu mẫu

 Bulletin

 Chân dung nhà giáo

 Chia sẻ

 Đảm bảo chất lượng

 Dịch vụ

 Đối tác

 Đối tác của Trường ĐHKT

 Học phí

 Hợp tác

 Hợp tác

 Hợp tác

 Khẩu hiệu hành động

 Lịch công tác

 Lịch thi học kỳ

 Lịch trình đào tạo

 Môi trường học tập

 More Information

 Nghiên cứu khoa học

 Nghiên cứu và Ấn phẩm

 Nhóm nghiên cứu mạnh

 Phiếu nhập điểm

 Research

 Resources

 Sinh viên

 Sinh viên

 Students and Alumni

 Thời khóa biểu

 Thông báo

 Thông báo

 THÔNG ĐIỆP LÃNH ĐẠO

 Tin tức

 TUYỂN DỤNG

 Tuyển sinh chương trình ĐT thứ hai bằng kép

 Văn bản hướng dẫn

 ♘ Giới thiệu

 CƠ CẤU TỔ CHỨC

 Contact

 Contact

 Contact us

 Đào tạo

 Development Cooperation

 Get Involved

 Gương mặt sinh viên

 Học và thi

 Học viên

 Hỏi - đáp

 Hợp tác phát triển

 Hợp tác phát triển

 Ký túc xá

 Lịch công tác

 Luận văn

 Presenter

 Sản phẩm KHCN tiêu biểu

 Thông báo

 Tin tức

 Tổ chức - nhân sự

 Triết lý giáo dục

 Tuyển sinh chương trình liên kết quốc tế

 Ý kiến bạn đọc

 Bài báo quốc tế

 Hoạt động Đảng - Đoàn thể

 Kế hoạch chiến lược

 Library

 Liên hệ

 Liên hệ

 Nghiên cứu - tư vấn

 Nghiên cứu khoa học

 Nhân vật - Sự kiện

 Phiếu nhập điểm

 Publication

 Students and Alumni

 Sydney Genesis

 Tài liệu văn bản - Hướng dẫn

 Thông báo

 Thông tin luận án

 THƯƠNG HIỆU

 Tư vấn và Đào tạo cao cấp

 Tuyển sinh

 Bài báo trong nước

 Biểu mẫu

 Chỉ dẫn đường đi

 Cơ sở dữ liệu Đảm bảo Chất lượng

 Công bố quốc tế của NCS

 Đảm bảo chất lượng

 Đào tạo ngắn hạn

 ĐBCL GIÁO DỤC

 Direction

 EDNA Genesis

 Hoạt động của sinh viên

 Học vụ

 Hợp tác phát triển

 Lịch Lãnh đạo khoa

 Niên luận - khóa luận

 Sinh viên tình nguyện

 Thông báo

 Tin tức hoạt động

 Tốt nghiệp

 Trao đổi

 Các nhà tài trợ

 Chuyên đề

 Cơ sở vật chất

 Cuộc sống sinh viên

 Đảm bảo chất lượng

 Đào tạo

 FAQs

 Liên hệ

 Liên hệ

 Liên hệ

 Liên hệ

 NCKH sinh viên

 Sinh viên nước ngoài

 Thông báo

 THÔNG TIN VNU

 Trọng số môn học

 Văn bản - Hướng dẫn

 Bài phát biểu của Hiệu trưởng

 BÁO CHÍ NÓI VỀ UEB

 Chỉ đường

 Đào tạo

 ĐHKT qua báo chí

 Download tài liệu NCKH

 Đường đến trường

 Hệ thống công nghệ thông tin

 News

 Sách đã xuất bản

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo

 Thông báo

 Tin tức

 Văn bằng

 About us

 Hệ thống website ĐHKT

 Kỷ yếu

 Liên hệ

 Trao đổi

 Tuyển dụng

 Văn bằng

 Việc làm cho sinh viên

 Bản tin Kinh tế Phát triển

 Biểu mẫu công tác SV

 Liên hệ

 Văn bản hướng dẫn

 Hỏi - đáp

 Khen thưởng - Kỷ luật

 Nghiên cứu khoa học

 Sắp diễn ra

 Sổ tay cán bộ Đoàn - Hội

 Academics

 In ấn - Xuất bản

 Liên hệ

 Thông báo

 Cooperation

 Đề tài đang thực hiện

 Research

 Cuộc thi khởi nghiệp

 Đề tài đã thực hiện

 Biểu mẫu về NCKH

 Hợp tác phát triển

 Video

 Văn bản hướng dẫn

 Campus

 Câu hỏi thường gặp

 Liên hệ

 Nghiên cứu

 Danh bạ web

 Sinh viên

 Liên hệ

 Góc chuyên môn

 Chương trình trao đổi quốc tế

 Chương trình trao đổi trong nước

 Hợp tác phát triển

 Văn bản - Biểu mẫu

 Cẩm nang sinh viên năm học 2021 - 2022

 Quy định về công tác SV

 Thư viện dùng chung khối ngành Kinh tế

 Hỏi - đáp về công tác SV

 test

 Giảng viên ĐHKT

 Học giả quốc tế

 Liên hệ

 Chỉ dẫn & bản đồ

Nhóm nghiên cứu mạnh: gắn kết nhà giáo và nhà khoa học

ĐHKT chuyển giao các kết quả nghiên cứu mới cho Hội đồng Lý luận Trung ương
Xác định các nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học có ý nghĩa quan trọng, Trường ĐHKT đã thúc đẩy xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, gắn kết giữa nghiên cứu và đào tạo, đến nay Nhà trường đã có những kết quả nổi bật. Bản tin ĐHQGHN có dịp trò chuyện với hai nhà khoa học: TS. Nguyễn Trúc Lê - Phó Hiệu trưởng Trường ĐHKT và TS. Nguyễn Đức Thành - Giám đốc Trung tâm VEPR - Trường ĐHKT.


- Tiến sĩ đánh giá thế nào về vai trò của các nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học?

TS. Nguyễn Trúc Lê: Các nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt đối với trường đại học nghiên cứu, vì đó là nòng cốt cho việc xây dựng và thực hiện mũi nhọn nghiên cứu, cho ra đời các dòng sản phẩm cụ thể, mang tính trường phái. Tình trạng phổ biến hiện nay của các trường đại học là giảng viên chỉ tập trung vào giảng dạy, với khối lượng giảng dạy rất lớn. Như thế, các giảng viên không còn hoặc còn rất ít thời gian nghiên cứu. Vì thế, kết quả nghiên cứu cũng rất hạn chế tản mát trên cơ sở cá nhân.


TS. Nguyễn Trúc Lê - Phó Hiệu trưởng Trường ĐHKT - ĐHQGHN

Việc hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh chính là đẩy mạnh việc chuyên môn hóa và tập trung hóa, tạo ra một lợi thế cho một số các giảng viên có thiên hướng nghiên cứu. Trên cơ sở đó mở rộng hợp tác và thúc đẩy chuyên môn, chất lượng nghiên cứu có thể cạnh tranh trên thị trường khoa học. Nếu phát huy được điều này, thì các đại học có thể khai thác được nguồn lực chất xám và thời gian cũng như chuyên môn của tập thể giảng viên và đội ngũ sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh.

- Tiến sĩ có thể cho biết kết quả nổi bật của NNC mạnh và sự kết nối giữa đào tạo với NCKH của Nhà trường như thế nào?
 

TS. Nguyễn Đức Thành - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, Trường ĐHKT
TS. Nguyễn Đức Thành: Nhóm nghiên cứu mạnh “Kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt Nam” của chúng tôi đã được hình thành từ 6 năm trước với sự thành lập Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), thuộc Trường ĐHKT, khi đó do PGS.TS Phùng Xuân Nhạ làm hiệu trưởng. Trong quá trình hoạt động và phát triển, chúng tôi tập trung vào nghiên cứu chuyên sâu đúng lĩnh vực đã đặt ra như tên của nhóm đã phản ánh rất rõ. Trên cơ sở đó chúng tôi từng bước gặt hái thành công và khẳng định được vị thế trong giới nghiên cứu nhờ sự chuyên môn hóa sau này. Cũng thông qua sự phát triển các dự án nghiên cứu, chúng tôi kết nối với các giảng viên trong trường và thông qua đó vừa có thêm nguồn lực về con người và trí tuệ cho nhóm nghiên cứu mạnh, vừa giúp các thầy cô bổ sung kinh nghiệm thực tế cho giảng dạy, nhất là ở bậc sau đại học.

- Được biết Nhà trường đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cao chuyển giao cho Đảng, Nhà nước (cụ thể là Hội đồng Lí luận TƯ, tổ chức nước ngoài, tập đoàn kinh tế), Tiến sĩ có thể cho biết cụ thể hơn về ý nghĩa của hoạt động này trong việc góp phần vào việc giải quyết các bài toán lớn của đất nước?

TS. Nguyễn Trúc Lê: Qua hơn 6 năm phát triển (2008-2014) nhóm nghiên cứu mạnh đầu tiên về kinh tế vĩ mô, và đã đạt được một số thành công ban đầu, Nhà trường đã rút ra nhiều bài học về tổ chức thực hiện. Về thành tựu, chỉ tính riêng Chương trình nghiên cứu “Kinh tế học vĩ mô và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt Nam” đã xây dựng được nền tảng nghiên cứu theo hai hợp phần lớn. Hợp phần thứ nhất liên quan đến việc nghiên cứu phát triển các lí thuyết và công cụ phân tích kinh tế vĩ mô hiện đại, với định hướng ứng dụng cho điều kiện Việt Nam.

Hợp phần thứ hai liên quan đến các nghiên cứu ứng dụng, gắn liền với thực tiễn Việt Nam trong thời điểm thực hiện nghiên cứu. Do đó, các nghiên cứu thuộc hợp phần thứ nhất nghiêng nhiều hơn về nền tảng lí thuyết và công cụ, còn các nghiên cứu thuộc hợp phần thứ hai nghiêng nhiều hơn về phân tích và thảo luận chính sách, hoặc dự báo tình hình kinh tế thực tiễn.

Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2009-2013, Chuỗi báo cáo đã bảo đảm được tính liên tục với chất lượng luôn được cải thiện, cụ thể như: Suy giảm và thách thức đổi mới (năm 2009); Lựa chọn để tăng trưởng bền vững (xuất bản tiếng Anh và Việt, năm 2010:); Nền kinh tế trước ngã ba đường (xuất bản tiếng Anh và Việt, năm 2011); Đối diện thách thức tái cơ cấu (hai thứ tiếng Anh - Việt, năm 2012:); Gập ghềng đường tới tương lai (hai thứ tiếng Anh - Việt, năm 2013).

Chuỗi báo cáo được giới chuyên môn đánh giá cao, có tác động tới giới hoạch định chính sách và gây tiếng vang trong dự luận. Cho tới nay, Báo cáo đã trở thành một sản phẩm quen thuộc trong đời sống kinh tế-xã hội của Việt Nam. Năm 2012, Chuỗi báo cáo được nhận Giải thưởng Bảo Sơn về phát triển bền vững.

Ngoài ra, một số chương trình nghiên cứu quy mô lớn, dài hạn đã được Nhóm nghiên cứu mạnh tại VEPR hoàn thành và thu được kết quả cao như: Dự án nghiên cứu “Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, vấn đề kiều hối và thực trạng nghèo đói tại Châu Á” (Global Crisis, Remittances, and Poverty in Asia) - phối hợp với Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Dự án nghiên cứu “Lạm phát ở Việt Nam từ năm 2000: Từ các bằng chứng vi mô đến các nhân tố vĩ mô quyết định lạm phát” - phối hợp với Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Dự án Nâng cao năng lực Xây dựng và Phân tích Chỉ số Lành mạnh Tài chính phục vụ việc Đánh giá Môi trường Kinh doanh - phối hợp với ADB, Dự án nghiên cứu “Hướng tới một hệ thống chính sách bình ổn kinh tế vĩ mô dài hạn cho Việt Nam” - do Bộ Hải ngoại Vương quốc Anh tài trợ, v.v…

Những kết quả nghiên cứu này đều được chuyển giao toàn bộ hoặc từng phần đến các cơ quan hoạch định chính sách quan trọng nhất của đất nước như Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Hội đồng Lý luận Trung ương, Ban Kinh tế Trung Ương, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cũng như giới nghiên cứu và học thuật trong và ngoài nước.

- Với kết quả nhóm nghiên cứu đạt được, Tiến sĩ có thể chia sẻ bài học kinh nghiệm từ việc hình thành, phát triển và triển khai nhóm nghiên cứu mạnh trong môi trường đại học?

TS. Nguyễn Đức Thành: Từ kinh nghiệm của người chịu trách nhiệm triển khai và phát triển một nhóm nghiên cứu mạnh, tôi cho rằng nhóm nghiên cứu mạnh thành công có ý nghĩa quan trọng khẳng định tính chất nghiên cứu của các trường đại học nghiên cứu. Việc hình thành nhóm nghiên cứu mạnh giúp xây dựng và khẳng định vị thế của trường đại học trong giới nghiên cứu nhanh hơn và hiệu quả hơn. Bởi vì bản chất đó là một quá trình tập trung hóa và chuyên môn hóa, giúp đi nhanh và đi sâu vào một lĩnh vực nghiên cứu nào đó, tạo ra sức cạnh trạnh trên thị trường nghiên cứu, mà trước đây chỉ do các viện nghiên cứu nắm lợi thế.

Các trường đại học để hình thành được một bản sắc nghiên cứu riêng của mình có thể sẽ mất thời gian lâu hơn để khẳng định, vì đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên của đại học bị chi phối nhiều vào công việc giảng dạy. Vì thế, việc hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh sẽ giúp các đại học đi nhanh hơn vào lĩnh vực nghiên cứu. Trên cơ sở những thành công và tiếng vang trong nghiên cứu, các thành viên của nhóm, các giảng viên của trường, sẽ được khích lệ và tiếp tục mở rộng nghiên cứu, đồng thời nâng cao chất lượng giảng dạy thông qua kinh nghiệm nghiên cứu thực tiễn phong phú hơn. Về lâu dài, điều này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo và tri thức sẽ được lan tỏa đến sinh viên, đặc biệt các nhóm học viên sau đại học. Đó chính là đội ngũ kế cận để tiếp tục bồi đắp và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh và cũng chính là cơ sở cho các đại học nghiên cứu.

- Những điều kiện quan trọng nào để các nhóm nghiên cứu này có thể tồn tại bền vững và lâu dài?

TS. Nguyễn Trúc Lê: Qua theo dõi kinh nghiệm xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh tại Trường ĐHKT, đặc biệt với 6 năm hoạt động với sự phát triển liên tục và từng bước gặt hái được thành công của Nhóm nghiên cứu “Kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt Nam”, tôi thấy có thể rút ra một số bài học cho kinh nghiệm thành lập và phát triển Nhóm nghiên cứu mạnh tại ĐHQGHN như sau: Thứ nhất, nhóm nghiên cứu cần xác định một Chương trình nghiên cứu có mục tiêu rõ ràng. Mục tiêu không dàn trải, mà chỉ giới hạn vào một chuyên môn sâu. Thứ hai, các thành viên nhóm nghiên cứu có chuyên môn và nhiệt huyết trong lĩnh vực nghiên cứu, đặc biệt có khát vọng muốn xây dựng ngành/nhánh khoa học đó tại Việt Nam. Thứ ba, Trưởng nhóm Nghiên cứu là người có năng lực chuyên môn, tâm huyết với nghề và có khả năng tổ chức, tập hợp. Để phát huy được năng lực và vai trò của Trưởng nhóm, cần xác định rõ vị trí của Trưởng nhóm, trao quyền độc lập cho Trưởng nhóm. Thứ tư, cần có một thể chế đi liền với Nhóm nghiên cứu, ví dụ một Trung tâm, Viện hoặc Phòng thí nghiệm độc lập. Với khoa học xã hội, đơn vị này nên hoạt động theo cơ chế 115. Đơn vị này là bộ máy hành chính để triển khai Chương trình Nghiên cứu mà Nhóm theo đuổi. Trưởng nhóm là thủ trưởng trực tiếp của đơn vị này (Giám đốc Trung tâm, Viện trưởng,…) và làm việc toàn thời gian. Thứ năm, nhóm nghiên cứu, thông qua đơn vị nêu trên, cần có tinh thần mở, liên kết với các nhà khoa học trong ngành, có chuyên môn cao, mà không phân biệt trong hay ngoài ĐHQGHN. Đây là yếu tố rất quan trọng. Có thể coi tổ chức, đơn vị này như một “đặc khu kinh tế tự do” nằm trong ĐHQGHN. Giao quyền độc lập cho Trưởng nhóm nghiên cứu trong việc hoạch định phát triển, kết nối, hợp tác khoa học và quốc tế. Thứ sáu, ĐHQGHN, trực tiếp, hoặc thông qua trường đại học thành viên, hỗ trợ đơn vị này dưới ba hình thức sau: 1) Cung cấp cơ sở vật chất căn bản (phòng làm việc, các dịch vụ hạ tầng như điện, nước, bảo vệ, vệ sinh, mạng internet…); 2) Hỗ trợ hệ thống đề tài thuộc ĐHQG trong lĩnh vực này thông qua giao một nhiệm vụ chiến lược, với cơ chế hợp đồng nghiên cứu, giảm tối đa các thủ tục hành chính và tài chính; 3) Hỗ trợ một số biên chế tối thiểu để duy trì đơn vị (biên chế với lương cơ bản cho bộ máy lãnh đạo và một số cán bộ hành chính cơ hữu cốt lõi - ví dụ kế toán). Thứ bảy, giảm tối đa các khoản đóng góp tài chính từ Nhóm nghiên cứu đối với đơn vị chủ quản, vì mục tiêu của các Nhóm nghiên cứu mạnh là xây dựng uy tín khoa học và hợp tác học thuật cho đơn vị chủ quản và ĐHQGHN, chứ không phải mục tiêu tài chính. Nên tự tin và nhất quán áp dụng một cách chính xác mô hình “đặc khu kinh tế tự do” trong trường hợp này.

- Xin trân trọng cảm ơn hai Tiến sĩ!

V.H Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, số tháng 6-2014