Trang Nghiên cứu
 
ĐHKT công bố Báo cáo đánh giá một năm thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA)

Sau 10 năm đàm phán, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) đã chính thức có hiệu lực vào tháng 8/2020 trong bối cảnh đặc biệt, khi mà cả thế giới đang phải chống chọi với đại dịch COVID-19.


Với những cam kết mạnh mẽ trong việc mở cửa thị trường hàng hóa, EVFTA được kỳ vọng là cú huých đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam; giúp đa dạng hóa thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt đối với các mặt hàng mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh như nông, thủy sản. giá một năm thực hiện EVFTA. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) sau 1 năm thực thi bên cạnh những thành quả thấy rõ cũng đã gợi cho các cơ quản quản lý và doanh nghiệp nhiều vấn đề cần quan tâm, đặc biệt là những thách thức để tận dụng tối đa những cơ hội mà EVFTA mang lại, đồng thời tạo thêm động lực cho cải cách.

Chiều 3/11, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), thuộc trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN phối hợp với Viện Konrad - Adenauer Stiftung (KAS) tại Việt Nam tổ chức hội thảo trực tuyến Công bố Báo cáo đánh giá một năm thực hiện EVFTA.

Ông Phạm Văn Long đã đại diện nhóm nghiên cứu trình bày báo cáo. Báo cáo của VEPR cho thấy, trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên toàn cầu, thương mại giữa Việt Nam và EU vẫn có những cải thiện nhất định sau một năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực. Trong khi trị giá các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường EU như điện thoại - linh kiện, hàng dệt may đều giảm, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU vẫn tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước, đạt 39,75 tỷ USD. Mức tăng trưởng này nhờ vào sự hồi phục của nền kinh tế EU trong quý II/2021. Đồng thời, tác động của việc giảm thuế quan đối với các mặt hàng của Việt Nam vào thị trường EU giúp thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng được hưởng lợi từ EVFTA. Một số ngành được miễn gần như toàn bộ thuế suất nhập khẩu vào thị trường EU có mức tăng trưởng mạnh như các mặt hàng sắt - thép và các sản phẩm từ nhựa hoặc cao su. Riêng đối với mặt hàng sắt thép, ngoài việc hưởng lợi từ giảm thuế suất với việc giá sắt nguyên liệu tăng đã khiến cho giá thép thành phẩm tăng gần gấp đôi trong năm vừa qua cũng khiến cho kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này tăng vọt. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ thị trường các nước EU đạt 16,51 tỷ USD, tăng hơn 24% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa nhiều nhất từ Ailen (chủ yếu là máy vi tính và sản phẩm điện tử).


PGS.TS. Nguyễn Anh Thu khai mạc Hội thảo

Hệ thống pháp luật Việt Nam đang từng bước chuyển biến tích cực nhằm đáp ứng những yêu cầu của EVFTA. Tuy nhiên, những lĩnh vực đáng lưu ý cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách là: sở hữu trí tuệ, quyền của người lao động và vấn đề bảo vệ môi trường. Trong bối cảnh cả Thế giới đang chống chọi với Đại dịch Covid-19, chuỗi cung ứng bị đứt gãy do các quốc gia đóng cửa để ngăn chặn sự xâm nhập của virus. Thương mại giữa Việt Nam và EU vẫn có sự cải thiện nhất định khi kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai bên vẫn tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2020. Tuy nhiên, như một xu hướng chung, tác động tiêu cực của Covid-19 cũng đã ảnh hưởng đến sự hợp tác giữa hai bên khi dòng vốn FDI từ EU sang Việt Nam sụt giảm mạnh trong giai đoạn tháng 08/2020 đến tháng 08/2021. Các mặt hàng, sản phẩm nông, lâm và ngư nghiệp xuất khẩu sang EU chiếm tỉ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khâu. Tuy nhiên các mặt hàng này đang gặp nhiều rủi ro do thường vi phạm các quy định SPS từ các đối tác. Đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, giá trị gia tăng trong sản xuất sản phẩm được tạo tại trong nước vẫn còn thấp. Do đó các mặt hàng này khó tận dụng các lợi ích từ việc giảm hoặc miễn thuế quan được một cách triệt để khi không đạt đủ yêu cầu trong các quy trình kiểm tra xuất xứ. Chi phí thương mại của Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực ASEAN. Các biện pháp phi thuế quan và thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp và gây cản trở cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như việc nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, từ đó làm giảm sức cạnh tranh của Việt Nam so với các nước trong cùng khu vực.

Hội thảo đã thu hút sự tham gia của các chuyên gia, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, EU, đại sứ quán Đức tại Việt Nam cũng như các cơ quan truyền thông. Ngoài sự tham gia điều hành hội thảo của PGS. TS. Nguyễn Anh Thu, Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN, Bà Phạm Tố Hằng, quản lý Chương trình, Viện KAS tại Việt Nam, hội thảo còn có sự tham gia thảo luận của Ông Jean-Jacques Bouflet, Phó chủ tịch, Hiệp hội các doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (Eurocharm), TS. Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế cao cấp, TS. Lê Quốc Phương, Nguyên Phó giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, Bộ Công ThươngTS. Vũ Thanh Hương, Phó trưởng khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN.

 Ông Phạm Văn Long đại diện nhóm nghiên cứu trình bày Báo cáo

 

 

TS. Vũ Thanh Hương thảo luận về kết quả của báo cáo

Các chuyên gia đánh giá cao và đồng tình với các nhận định từ báo cáo của VEPR, và thảo luận các vấn đề xoay quanh tác động của EVFTA, các vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp và Chính phủ Việt Nam và đưa ra một số hàm ý chính sách. Các chuyên gia đặc biệt nhấn mạnh EVFTA đã mở ra cơ hội và lợi thế đặc biệt cho việc thúc đẩy thương mại giữa EU và Việt Nam trong khi chỉ có rất ít các quốc gia châu Á có lợi thế này. Tuy nhiên, để có thể tận dụng các cơ hội từ Hiệp định này, cần có các chương trình hỗ trợ cụ thể cho Doanh nghiệp Việt Nam từ thông tin, chuyển đổi số cho tới việc hợp tác, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Cần cải tổ và tăng năng lực điều hành cũng như giám sát đối với SPS Việt Nam nhằm hạn chế các vi phạm các qui định về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật tại các nước nhập khẩu. Các cam kết về chính sách liên quan tới sở hữu trí tuệ, lao động, minh bạch thông tin cần phải được ưu tiên, đặc biệt Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách và thực các chính sách liên quan tới sở hữu trí tuệ để phát triển thương mại dịch vụ cũng như phát triển những hình thức thương mại mới. Về dài hạn, cần có các chương trình hỗ trợ đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.

________________

THÔNG TIN LIÊN QUAN:

1. Thông tấn xã Việt Nam
https://bnews.vn/cong-bo-bao-cao-danh-gia-mot-n…/219632.html
2. Báo Công thương
https://congthuong.vn/1-nam-thuc-thi-hiep-dinh-evfta-viet-n…
3. Sở ngoại vụ Đà Nẵng
https://fad.danang.gov.vn/web/guest/chi-tiet?id=3433&_c=59
4. Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
https://dangcongsan.vn/…/evfta-hiep-dinh-the-he-moi-huong-t…
5. Sài Gòn giải phóng
https://www.sggp.org.vn/thay-doi-chien-luoc-hai-tao-thap-77…
6. Tạp chí Khoa học công nghệ Việt Nam
https://vjst.vn/…/hiep-dinh-evfta--nhin-lai-mot-nam-thuc-hi…
7. Tạp chí Bảo hiểm xã hội
http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/…/tin-chi-tiet-dn-viet-nam…
8. CafeF.vn
https://cafef.vn/hien-tuong-la-ve-evfta-can-theo-doi-202111…
9. Người đưa tin
https://www.nguoiduatin.vn/evfta-va-chien-luoc-de-lam-truoc…
10. Thời báo tài chính Việt Nam
https://thoibaotaichinhvietnam.vn/con-nhieu-thach-thuc-tron…

 


VEPR